Từ ngày 01/07/2025, hai tỉnh giàu bản sắc văn hóa là Bắc Ninh và Bắc Giang chính thức hợp nhất, hình thành Tỉnh Bắc Ninh mới với trung tâm chính trị – hành chính đặt tại Bắc Giang. Sự kiện trọng đại này không chỉ mở ra một chặng đường phát triển mới về kinh tế – xã hội, mà còn là dịp để nhìn lại và tôn vinh những giá trị tinh thần, tín ngưỡng đã gắn bó sâu sắc với vùng đất Kinh Bắc xưa.
Bắc Ninh – cái nôi của dân ca Quan họ, và Bắc Giang – miền đất địa linh nhân kiệt, đều sở hữu hệ thống đền chùa linh thiêng, cổ kính, phản ánh chiều sâu lịch sử, văn hóa và đời sống tâm linh của người dân vùng châu thổ sông Hồng. Từ những danh lam đã đi vào sử sách như Chùa Dâu, Chùa Bút Tháp, Chùa Phật Tích của Bắc Ninh, đến những địa danh nổi bật như Chùa Vĩnh Nghiêm, Chùa Bổ Đà, Đền Suối Mỡ của Bắc Giang – tất cả tạo nên một bức tranh đa sắc về Phật giáo và tín ngưỡng dân gian nơi đây.
Bài viết này sẽ là hành trình kết nối những di sản tâm linh tiêu biểu của hai vùng đất, góp phần gìn giữ, giới thiệu và lan tỏa giá trị văn hóa của Tỉnh Bắc Ninh mới – nơi quá khứ và hiện tại hòa quyện trong từng mái chùa, nếp đền.
Chùa Dâu còn được biết đến với các tên gọi khác như Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, chùa Cả, Cổ Châu tự,… Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính, lưu giữ nhiều giá trị lịch sử, kiến trúc và tâm linh độc đáo.
Được biết, vào năm 2013, chùa Dâu đã được công nhận là “Di tích Quốc gia đặc biệt”. Từ đó, chùa đã trở thành biểu tượng không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người dân nơi đây, thu hút đông đảo du khách hành hương, chiêm bái mỗi năm.
Chùa Dâu tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 30km, chùa thuộc vùng đất cổ Kinh Bắc, nơi được coi là cái nôi của nền văn hóa dân gian Việt Nam. Đây là một địa điểm tâm linh quan trọng, gắn liền với lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Chùa Dâu được xây dựng từ năm 187 – 226 đầu Công Nguyên, với vị trí tại trung tâm Luy Lâu – thủ phủ Giao Chỉ thời bấy giờ. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã đến đây để truyền bá Phật giáo, đánh dấu sự xuất hiện của tôn giáo này tại Việt Nam.
Đến cuối thế kỷ VI, các nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến Chùa Dâu và sáng lập ra Thiền phái đầu tiên ở Việt Nam. Điều này góp phần nâng cao vị thế của chùa, biến nơi đây thành trung tâm tư tưởng và tín ngưỡng nổi bật trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, Chùa Dâu không chỉ gắn liền với các sự kiện quan trọng mà còn được trùng tu, mở rộng nhiều lần. Năm 1313, dưới thời vua Trần Anh Tông, trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đã thiết kế lại chùa với quy mô lớn, gồm chùa trăm gian, tháp chín tầng và cầu chín nhịp, tạo nên một công trình bề thế và giàu giá trị nghệ thuật.
Năm 1962, Chùa Dâu được công nhận là “Di tích lịch sử Quốc gia”, khẳng định vai trò quan trọng của ngôi chùa trong hệ thống di sản văn hóa và lịch sử Việt Nam.
Truyền thuyết kể rằng, Man Nương (hay nàng Mèn) là một cô gái sùng đạo, năm 10 tuổi đến học tại chùa Linh Quang (tỉnh Bắc Ninh) dưới sự hướng dẫn của thiền sư Khâu Đà La. Một hôm, thiền sư đi vắng và căn dặn Man Nương trông coi chùa cẩn thận. Tối đến, Man Nương ngủ ở ngoài thềm, Khâu Đà La về và bước qua người và sau đó bà thụ thai một cách thần kỳ.
Sau 20 tháng mang thai, Man Nương sinh ra một bé gái và đem đến trả lại thiền sư. Ông bèn dùng cây tích trượng gõ vào cây dâu gần chùa. Cây dâu lập tức tách ra, thiền sư đặt đứa trẻ vào bên trong, rồi cây khép lại, trở thành cây thần linh thiêng. Trước khi rời đi, thiền sư trao cho Man Nương cây gậy thần, căn dặn bà dùng gậy cắm xuống đất để cứu dân mỗi khi xảy ra hạn hán.
Sau này, khi hạn hán kéo dài ba năm, Man Nương làm theo lời dặn. Ngay khi cây gậy cắm xuống, nước phun trào, cây cối hồi sinh, cứu giúp muôn dân thoát khỏi cảnh khổ cực.
Không lâu sau, một trận bão lớn quật ngã cây dâu xuống sông Thiên Đức. Thái thú Sĩ Nhiếp cố vớt cây nhưng không thành. Lúc này, Man Nương đến, buộc dải yếm vào cây và nói: “Nếu là con của mẹ, hãy theo mẹ lên bờ”. Kỳ diệu thay, cây lập tức nổi lên.
Kính phục trước điều này, Sĩ Nhiếp cho tạc tượng Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) từ thân cây để thờ tại các chùa trong vùng. Trong lúc tạc tượng, người thợ phát hiện một khối đá phát sáng kỳ lạ, được tôn làm Thạch Quang Phật.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Chùa Dâu được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, mỗi tên gọi đều gắn liền với những giai đoạn phát triển và ý nghĩa đặc biệt. Các tên gọi nổi bật của chùa bao gồm:
Chùa Dâu là nơi thờ Phật Pháp Vân (hay còn gọi là Thần Mây) – một trong Tứ Pháp (Thần Mây, Thần Mưa, Thần Sấm và Thần Chớp) được người dân Việt Nam xưa tôn thờ với ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Trong đó, Phật Pháp Vân là biểu tượng của sự che chở, bình an, đồng thời cũng là vị thần quan trọng nhất trong Tứ Pháp.
Ngoài Phật Pháp Vân, chùa Dâu Bắc Ninh còn thờ:
Cũng như nhiều ngôi chùa khác, chùa Dâu mang đậm dấu ấn kiến trúc truyền thống Việt Nam với lối thiết kế “nội Công ngoại Quốc” đặc sắc. Kiểu kiến trúc này rất phổ biến trong các công trình Phật giáo cổ, tạo nên không gian hài hòa, vững chãi, vừa mang tính thẩm mỹ cao vừa phù hợp với nhu cầu tâm linh.
Cấu trúc tổng thể của chùa bao gồm bốn dãy nhà hình chữ nhật, liên thông khép kín, bao quanh ba ngôi nhà chính là tiền đường, thiêu hương và thượng điện.
Ngoài ra, các chi tiết như mái cong vút, kết hợp các mảng điêu khắc tinh xảo và không gian bố trí cân đối đã giúp Chùa Dâu toát lên vẻ đẹp cổ kính nhưng không kém phần trang nghiêm, gợi nhắc về bề dày lịch sử và ý nghĩa tâm linh sâu sắc.
Di tích Chùa Dâu không chỉ là nơi để hành hương mà còn là bảo tàng sống động, lưu giữ tinh hoa của điêu khắc và nghệ thuật Phật giáo cổ xưa.
Lễ hội Chùa Dâu diễn ra vào ngày 8 tháng 4 âm lịch hàng năm (trùng với ngày Phật Đản). Đây là một trong những lễ hội lớn nhất ở Bắc Ninh, thu hút đông đảo Phật tử và du khách từ khắp nơi về dự.
Lịch trình chi tiết lễ hội chùa Dâu Bắc Ninh bao gồm:
Các hoạt động chính trong lễ hội
Lễ hội Chùa Dâu không chỉ là dịp để cộng đồng tưởng nhớ và tôn vinh tín ngưỡng Tứ Pháp, mà còn là cơ hội bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân gian của vùng Kinh Bắc. Hơn nữa, đây cũng là dịp để Phật tử và người dân bày tỏ lòng thành kính với Phật pháp, cầu mong sức khỏe, bình an và mưa thuận gió hòa.
Mặt khác, lễ hội gắn kết tình cảm giữa các thế hệ, tạo không gian để mọi người chia sẻ, kết nối và cảm nhận giá trị truyền thống sâu sắc.
Địa chỉ: xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Chùa Lim là một ngôi chùa nổi tiếng của vùng đất Bắc Ninh. Nơi đây tọa lạc ở xã Vân Tương, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngôi chùa này nằm ở trên đỉnh của núi Lim hay còn được biết đến với tên gọi khác là núi Hồng Vân. Hằng năm, nơi đây thu hút đông đảo du khách thập phương ghé tới để cầu may cũng như về với lễ Hội Lim nổi tiếng. Đây là nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu, được xem là người đã sáng lập ra tục hát Quan Họ.
Chùa Lim là một trong những điểm đến không thể bỏ qua khi nhắc tới du lịch tâm linh ở Bắc Ninh.
Năm 1992, Quần thể di tích Lim, trong đó có Chùa Lim, được công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia.
Chùa Lim có tên chữ là Hồng Ân Tự, được xây dựng vào thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII), trên núi Lim – ngọn núi linh thiêng gắn liền với lịch sử và văn hóa của vùng Kinh Bắc.
Chùa gắn với thiền sư Từ Đạo Hạnh và các giai thoại dân gian về ông tổ Quan họ – Đức Vua Bà (Hồng Nương Công Chúa).
Nơi đây từng là trung tâm Phật giáo và là nơi diễn ra nhiều sinh hoạt văn hóa, đặc biệt là hội Lim – một trong những lễ hội dân gian lớn nhất vùng Bắc Bộ.
Hội Lim là một sinh hoạt văn hoá - nghệ thuật đặc sắc của nền văn hoá truyền thống lâu đời ở xứ Bắc và bắc ninh, dân ca Quan họ trở thành tài sản văn hoá chung của dân tộc Việt, tiêu biểu cho loại hình dân ca trữ tình Bắc Bộ.
Hội Lim chính là hội chùa làng lim và đôi bờ sông Tiêu Tương. Hội Lim trở thành hội hàng tổng (hội vùng) vào thế kỷ thứ 18. Khi quan trấn thủ xứ Thanh Hóa Nguyễn Đình Diễn là người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc, có nhiều công lao với triều đình, được phong thưởng nhiều bổng lộc, đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông còn cho xây dựng trước phần lăng mộ của mình đặt tên là lăng Hồng Vân trên núi Lim. Do có nhiều công lao với hàng tổng và việc ông đặt hậu ở chùa Hồng ân, nên khi ông mất nhân dân tổng Nội Duệ đã tôn thờ làm hậu thần, hậu Phật hàng tổng. Văn bia lăng Hồng Vân có tên Hồng Vân từ bi ký niên đại Cảnh Hưng 30 (1769) hiện giữ ở đình thôn Đình Cả đã cho biết khá rõ lai lịch, công trạng và việc thờ phụng hậu hàng tổng Nguyễn Đình Diễn mỗi năm hai dịp vào "ngày sinh" và "ngày hóa" của ông tại lăng Hồng Vân và chùa Hồng ân trên núi Lim. Song trải tháng năm lịch sử, hội Lim đã có nhiều lớp văn hóa, trong đó người ta chỉ tổ chức tế lễ hậu thần vào một dịp là ngày 13 tháng giêng trùng với hội chùa Lim. Chính vì vậy mà có hội Lim và đây là hội hàng tổng.
Chùa được xây theo kiểu nội công ngoại quốc, tức là bố cục mặt bằng gồm nhiều lớp nhà bao quanh khu chính điện trung tâm.
Toàn bộ chùa nằm trên sườn núi Lim, hướng nam, quay mặt ra cánh đồng làng Lim – thế đất phong thủy "tiền thủy hậu sơn".
Trong chùa có các công trình tiêu biểu:
Bao quanh chùa là hệ thống cây cổ thụ, giếng ngọc, tháp cổ, tạo không gian thiền định và linh thiêng.
Chùa Lim không chỉ là nơi thờ Phật mà còn là nơi tưởng niệm các nhân vật có công truyền bá đạo Phật và văn hóa Quan họ.
Lễ hội chùa Lim (tổ chức ngày 13 tháng Giêng âm lịch hằng năm) là lễ hội lớn nổi tiếng cả nước, quy tụ hàng ngàn liền anh, liền chị hát Quan họ trên thuyền rồng, trong sân đình và cả trong chùa.
Đây được xem là nơi “khai sinh ra dòng Quan họ cổ” – di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận.
Địa chỉ: xã Vân Tương, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự 寧福寺) nằm ở bên đê hữu ngạn sông Đuống, thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra, nhân dân trong vùng còn gọi là chùa Nhạn Tháp, chùa Thấp. Tên cũ của chùa trước đây gồm có: Thiếu Lâm Tự, Hoàng Cung Tự.
Trong chùa có tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn bằng gỗ lớn nhất Việt Nam. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4.
Để xác định chùa có từ bao giờ thì chưa có nhà nghiên cứu nào đưa ra một tài liệu chính xác. Theo sách Địa chí Hà Bắc (1982) thì chùa có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Thiền sư Huyền Quang (đỗ Trạng nguyên năm 1297) đã trụ trì ở đây. Ông cho dựng ngọn tháp đá cao 9 tầng có trang trí hình hoa sen. Ngọn tháp này nay không còn nữa. Đến thế kỷ 17, chùa đã trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644), người tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa, sang Việt Nam năm 1633 và trụ trì ở chùa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch và được vua Lê phong là "Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư". Tiếp đó, người kế nghiệp trụ trì chùa Bút Tháp là Thiền sư Minh Hạnh, học trò xuất sắc của Hòa thượng Chuyết Chuyết. Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Diệu Viên) đã rời bỏ cung thất, về đây tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà cùng con gái là công chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), xin phép Chúa Trịnh Tráng, rồi bỏ tiền của, ruộng lộc ra công đức để trùng tu lại ngôi chùa. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Chùa kiến trúc theo kiểu "Nội Công Ngoại Quốc". Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay chính là ngôi chùa được xây dựng trong thời kỳ đó.
Đời vua Tự Đức, năm 1876, khi vua qua đây thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, nhưng trên đỉnh vẫn ghi là tháp Bảo Nghiêm.
Chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật, chùa Bút Tháp đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích cấp quốc gia theo quyết định số 313-VH/VP ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Chùa Bút Tháp là một ngôi chùa cổ với nét kiến trúc vô cùng độc đáo tại Bắc Ninh. Ninh Phúc tự được cho xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17 thời Hậu Lê. Kiến trúc xây dựng của chùa theo kiểu “Nội công ngoại quốc”.Tuy đã trải qua hàng trăm năm lịch sử nhưng chùa vẫn giữ nguyên vẻ đẹp cổ kính. Đây cũng là một trong những di tích lịch sử Quốc Gia mà du khách nên ghé tới. Đặc biệt bạn sẽ không muốn bỏ lỡ cơ hội tham gia lễ hội chùa Bút Tháp.
Kiến trúc xây dựng chính của chùa quay về hướng Nam. Theo đạo phật đây là hướng thể hiện trí tuệ. Chùa được xây dựng theo bày trí cân xứng chặt chẽ.
Khu trung tâm của tháp được xây dựng bao gồm 8 nếp nhà chạy song hành với một trục dọc theo mô hình đường thần đạo. Khu vực ngoài cùng tháp bút là Tam Quan, rồi đến Gác Chuông và các tòa thờ khác.
Bên trái của chùa là nơi thờ tự Chiết Tuyết và tháp đá Báo Nghiêm bao gồm 8 mặt và 5 tầng cao đến 13m. Dọc hai bên tòa Tiền Đường là hai nhà bia và hai dãy hành lang được xây dưng chạy dọc theo chiều dài của ngôi chùa.
Tượng phật là 1 trong 4 bảo vật quốc gia được Nhà nước công nhận được đặt tại chùa. Ngoài tượng Phật Quan Âm, du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng: Bộ Tượng Phật Tam Thế, cùng Hương Án và tòa Cửu Phẩm Liên Hoa.Một trong những địa điểm được nhiều du khách đặc biệt quan tâm trong Chùa Bút Tháp đó chính là tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt. Pho tượng này đã có tuổi đời rất lâu năm được xác nhận điêu khắc vào năm 1656.
Tượng có bề ngang là 2.1m và chiều cao 3.7m, độ dày là 1.15m. Được gọi là tượng phật nghìn tay nghìn mắt bởi tượng Quan Âm có tất cả là 11 đầu với 952 cánh tay ngắn và 42 cánh tay dài. Đây thật sự là một tác phẩm nghệ thuật độc nhất mang đậm ý nghĩa Phật Giáo.
Một địa điểm mà du khách nhất định phải ghé đến khi thăm Chùa Bút Tháp đó là tháp Báo Nghiêm. Tháp được đặt nằm ngay bên trong khuôn viên của chùa. Đây chính là nơi thờ tự Hòa thượng Chuyết Chuyết.
Tháp Báo Nghiêm được tiến hành xây dựng từ năm 1647 thời vua Lê Chân Tông. Đây cũng là công trình được công nhận có tuổi đời lâu năm. Cửa chính của tháp cũng được xây dựng quay về hướng Nam với dòng chữ “Báo Nghiêm Tháp” ngay tại thân của công trình.
Tháp có kiến trúc tương đối độc đáo xây dựng nhỏ dần từ thấp đến cao. Nhìn từ trên cao trông tháp Báo Nghiêm như một chiếc bút khổng lồ giữa bầu trời xanh.
Địa chỉ: thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Chùa nằm trong quần thể di tích lịch sử văn hóa Thuận Thành đã được nhà nước xếp hạng cấp quốc gia như: Chùa Dâu xã Thanh Khương, Chùa Bút Tháp xã Đình Tổ, Lăng Kinh Dương Vương xã Đại Đồng Thành, làng tranh Đông Hồ xã Song Hồ, Đền thờ lăng mộ Sĩ Nhiếp thôn Tam Á xã Gia Đông. Đây là vùng đất cổ xưa hội tụ linh khí của trời đất, đường thông khắp ngả nên đã được người xưa chọn làm thánh địa xây chùa.
Chùa được dựng vào thời Trần. Ngôi chùa hiện nay được dựng trên nền chùa cũ vào năm 1986. Trải qua thăng trầm lịch sử, ngôi chùa bị phá hủy nhiều lần chỉ còn lại 3 pho tượng Tam thế tạc bằng đá-những tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật cao.
Sách Địa chí Hà Bắc (Hà Bắc, 1982) cho biết, ba pho tượng đá ở chùa là công trình nghệ thuật của thời Trần còn lại. Sách Mỹ thuật của người Việt (Hà Nội, 1989) khẳng định niên đại muộn nhất của ba pho tượng là thế kỷ XV.
Những mô-típ chạm khắc trên ba bệ tượng như rồng, hoa sen, hoa cúc, dương xỉ có xu hướng cấu trúc như các chạm khắc trang trí Lý – Trần. Hiện nay có tài liệu gọi ba pho tượng là bộ Di-đà Tam Tôn (Di Đà, Quan Âm, Thế Chí), có tài liệu gọi là bộ tượng Tam Thế Phật (Di Đà, Thích Ca, Di Lặc): tượng Phật Di Đà cao 2,30m (phần tượng 1,37m), tượng Phật Thích Ca cao 2,39m (phần tượng 1,37m) và tượng Phật Di Lặc cao 2,49m (phần tượng cao 1,40m).
Bước vào khu di tích chùa Linh Ứng ta có thể cản nhận một vùng không gian linh thiêng với tòa Tam quan uy nghi mới được xây dựng lại năm 1997. Đi sâu vào bên trong qua một khoảng sân nhỏ là năm gian Tiền Đường 4 mái cong vút rồi đến Thượng Điện được đặt thờ 5 hàng tượng với bộ tượng tam thế bằng đá .Phía sau Nhà Tổ là ba gian nhà Mẫu xây theo kiểu kiến trúc hiện đại nên mái cao và rất thoáng. Xung quanh khu di tích là những cây xanh cho bóng mát và góp phần tạo bầy không khí linh thiêng, dịu nhẹ và thoát tục cho du khách đến nơi đây.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Địa chỉ: thôn Ngọc Khám, xã Gia Đông, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Chùa Hàm Long (chữ Hán: 寺含龍) hay Long Hạm tự (chữ Hán: 龍頷寺) là một ngôi chùa cổ tại khu phố Thái Bảo, phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, chùa nằm cách trung tâm thành phố Bắc Ninh khoảng 7km về phía Đông Nam. Chùa được xây dựng từ thế kỷ XII thời nhà Lý. Nhà chùa là một chốn Tổ Phật giáo từ thời Phục hưng, thuộc chi phái Liên Tông, phái Thiền tông Trúc Lâm. Hiện nay, trụ trì của nhà chùa là Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Dũng (thế danh Nghiêm Văn Dũng), ông cũng đang là Phó Pháp chủ kiêm Chánh Thư ký Hội đồng Chứng minh của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Trưởng ban Trị sự kiêm Trưởng ban Pháp chế GHPGVN tỉnh Bắc Ninh.
Theo tài liệu xưa ghi chép lại, chùa Hàm Long Bắc Ninh được xây dựng năm 1158 dưới thời nhà Lý bởi Lý Quốc sư Nguyễn Minh Không dưới triều vua Lý Anh Tông. Chùa nằm trên một khu đất có hình thể như 6 hiền sĩ hội tụ, thế tứ linh (long, ly, quy, phụng). Để đến được chùa Hàm Long, bạn sẽ phải băng qua những bậc đá ngay ngắn.
Hiện chùa vẫn còn lưu giữ được một số tượng Phật cổ cùng 14 tháp mộ cổ từ thời Trần, Hậu Lê và Nguyễn. Trong số đó bao gồm 4 pho tượng bằng đồng có thủ pháp nghệ thuật và kỹ thuật đúc đặc sắc: tượng đức Phật Thích Ca cao 2,10m; tượng A-nan và Ca-diếp cao 1,86m; tượng Hoàng hậu Maya cao 1,58m (mẹ của đức Phật). Những pho tượng này được đúc đồng tại địa phương, có thần thái tiêu dao tự tại, mang đến cảm giác thanh thản cho mọi người khi đến viếng.
Cái tên Hàm Long vốn bắt nguồn từ việc phía trước cổ tự được ngọn núi Thần Long che chắn. Xung quanh chùa là những ngọn núi nên thơ, đậm nét hữu tình. Không những nổi tiếng với lịch sử nghìn năm hay kiểu kiến trúc hoài cổ đặc trưng, nơi đây còn có những câu chuyện kỳ thú xoay quanh sự linh thiêng của chùa.
Với bề dày lịch sử hơn 1.000 năm cùng kiến trúc mang đậm nét văn hóa thời Lý, ngôi chùa được mệnh danh là danh lam cổ tự có lịch sử lâu đời. Đến với chùa Hàm Long, bạn sẽ được cảm nhận sự thanh tịnh, cổ kính và uy nghiêm vốn có của chốn chùa chiền. Đặc biệt trong đó là các bức tượng Phật cùng 14 tháp mộ cổ được xây dựng từ các thời Trần, Hậu Lê, Nguyễn. Các bức tượng cổ đều được đúc bằng đồng với kỹ thuật vô cùng tinh xảo phải kể đến như tượng của Phật Thích Ca cao hơn 2 mét, tượng A Nan, Ca Diếp cao hơn 1,8 mét và tượng Hoàng hậu Mây cao xấp xỉ 1,6 mét.
Ở chùa, bạn sẽ cảm nhận được một sự bí ẩn, huyền bí khó tả của những công trình phủ đầy rêu phong. Các công trình gồm có: cổng Tam Quan, Tam Bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, nhà Khách, nhà Tăng và các công trình phụ trợ. Chùa thờ 7 vị Tổ, thờ Mẫu với hệ thống tượng Phật được đúc bằng đồng to bằng người thật. Đặc biệt chùa còn thờ ông Đỗ Trọng Vỹ. Ông được biết đến là người thông minh hiếu học, là vị quan liêm chính, là nhà giáo, nhà văn hóa của nước nhà. Ông còn là người đã công trong việc xây dựng nên Văn Miếu Bắc Ninh.
Kể từ khi thành lập đến nay, chùa Hàm Long đã nổi danh với việc “nhốt vong” và “cắt trùng tang”. Nguồn gốc của sự việc này đến từ vị sư Trịnh Thập. Hòa thượng thương xót cho cảnh chúng sinh cứ phải sống trong nỗi lo sợ về việc “trùng tang”, muốn tìm cách khiến họ an tâm. Chính vì vậy, sư Như Trừng Lân Giác đã tạo ra kinh Thập nguyện và bộ ván in khắc phù giải giúp cho những vong hồn được siêu sinh, siêu thoát. Những vong linh khi đến chùa được kinh kệ hồi hướng, dẫn lối cho vong hồn. Từ đó, ngôi chùa nổi danh là “Đệ nhất nhốt trùng” và thu hút nhiều người đến “gửi vong” nơi cửa Phật.
Về sau, ngôi chùa đón nhận thêm nhiều cao tăng đến học, trong đó có vị Thiền sư Dương Không Lộ - người được biết đến là theo Vạn pháp quy tông của phái Bắc tông, có khả năng hóa giải các loại trùng hiệu quả. Danh tiếng về sự linh thiêng của ngôi chùa như được chứng thực thêm nữa.
Bên cạnh đó, ngôi chùa còn được gắn liền với câu chuyện về những con đom đóm. Người dân sinh sống gần đó thường xuyên thấy những đàn đom đóm bay ra từ chùa vào khoảng 5 giờ chiều. Những con đom đóm to bằng đầu ngón tay phát sáng cả một vùng. Người ta đồn đoán những con đom đóm là hóa thân của những vong linh đã được “gửi” vào chùa, được chùa thả đi chơi cho bớt nhớ dương gian. Và sau 7h tối, những vong linh phải về lại với chùa. Hàng ngày, các tăng sư của chùa Hàm Long thường nấu cháo trắng để cúng cho chúng sinh hai bữa.
Và đó là sự lý giải về những việc tâm linh của ngôi chùa theo chiều hướng khoa học.
Theo kinh nghiệm du lịch, nếu bạn ghé thăm vào khoảng ngày 23 – 25 tháng Giêng âm lịch thì sẽ được hòa mình vào không khí lễ hội chùa Hàm Long vô cùng đặc sắc. Thời điểm này cũng có tổ chức khá nhiều hoạt động lý thú như tắm tượng Phật, đọc kinh, hát chèo, kể chuyện về công đức của nhà Phật…
Chuyện đàn đom đóm và nồi cháo trắng: Khoảng từ 5h – 7h người dân địa phương và nhiều khách tham quan từng nói họ thường nhìn thấy một đàn đom đóm từ chùa bay ra. Theo mọi người, đây là lúc những vong hồn được ra ngoài để bớt nhớ trần thế, sau 7h sẽ được các vị sư gọi về. Mỗi ngày chùa Hàm Long đều nấu 2 bữa cháo trắng vào buổi sáng và tối để cúng cho các vong hồn không bị đói. Có lời đồn về việc hôm nào chùa quên nấu cháo thì gà vịt trong làng sẽ bị vong ăn chết.
Bùa hình người để “trấn vong”: Mỗi khách tham quan đến với chùa Hàm Long sẽ được phát cho 2 loại bùa: 1 có mặt hình phật, mặt kia ghi chữ nho và 1 là loại giấy nhiều màu xoắn thành một hình nhân cao khoảng 3cm. Cả hai loại bùa đều đã được các cao tăng trì chú để trấn vong, có tác dụng mang đến bình an và sức khỏe cho người sử dụng.
Địa chỉ: thôn Thái Bảo, phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng nằm ở xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Vào năm 2011, nơi đây bắt đầu khởi có diện tích hơn 18ha, đến thời điểm hiện tại đã hoàn thiện.
Thiền viện được xây dựng trên đỉnh Non Vua, đây chính là đỉnh núi cao nhất của dãy Nham Biền. Đỉnh núi còn có Giếng trời hay còn gọi là Thiên huyệt chứa dòng nước tươi mát trong xanh. Ngoài ra, dưới chân núi Non Vua là khe Hang Dầu nơi quy tụ Nguyệt Nham của 9 ngọn núi Phượng với nguồn nước dồi dào cùng thảm thực vật phong phú. Vì vậy, bao quanh lấy Thiền viện là thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, trùng trùng điệp điệp mang đến cảm giác thoải mái, giúp khách du lịch hòa mình với thiên nhiên quên đi muộn phiền.
Khởi công từ năm 2011, Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng thuộc thôn Minh Phượng, thị trấn Nham Biền, huyện Yên Dũng, cách TP Bắc Giang khoảng 15 km. Thiền viện có tổng diện tích hơn 18 ha gồm các hạng mục: Cổng tam quan; lầu chuông, lầu trống; Tòa điện chính; nhà tổ, nhà khách; nhà trưng bày; thiền đường, trai đường, thư quán… Các hạng mục được thiết kế hài hòa với kiến trúc đẹp, uy nghi, gắn kết được sự tôn nghiêm, hòa quyện với hồn thiêng của vùng đất Phượng Hoàng.
Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng được xây dựng theo nguyện vọng của tăng ni, Phật tử Bắc Giang nói riêng và cả nước nói chung nhằm phục hưng dòng thiền Trúc Lâm trên vùng đất trung du giàu truyền thống văn hóa, cách Yên Tử không xa.
Đây là công trình do Hòa thượng Thích Thanh Từ, người có công khôi phục dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử thời hiện đại, chỉ đạo về mặt tâm linh và định hướng xây dựng.
Chùa được đặt tại núi Phượng Hoàng, nơi tương truyền là vùng đất linh thiêng, phong thủy “long chầu hổ phục”, mang ý nghĩa tái sinh – khai sáng – thịnh vượng.
Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng bao gồm các công trình như Cổng Tam Quan, lầu chuông, lầu trống, nhà tổ, tòa điện chính, thư quán,... Các công đều được thiết kế với phong cách uy nghiêm nhưng vẫn mang đậm nét độc đáo của lối kiến trúc truyền thống văn hóa Phật Giáo Việt Nam.
Điểm nhấn đầu tiên là con đường bên sườn núi từ chân Thiên viện đến cổng Tam Quan với hơn 300 bậc đá lớn. Đến cổng Tam Quan du khách dễ dàng nhìn thấy dòng chữ “Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng” nằm uy nghi trên cổng.
Ngoài ra, Khu chính điện - hạng mục chính của công trình với tổng diện tích bao gồm cả tầng 1 và tầng 2 là 3000 m2. Ở phía trước chính điện là 2 công trình lầu chuông và lầu trống được đặt cạnh cổng Tam Quan tạo nên thế cân xứng, hài hòa. Bên trong chính điện được trang trí tranh vẽ tường kể về cuộc đời của của Đức Phật Thích ca từ khi ngài mới chào đời.
Đồng thời, hệ thống các tượng điêu khắc khác như Bổn sư Thích Ca Mâu Ni, ngài Phổ Hiền , ngài Văn Thù sư Lợi, Tổ sư Đạt Ma và tượng Tam Tổ Trúc thời nhà Trần là Giác Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông, Trúc Lâm Đệ Nhị Tổ Đồng Kiên Cương Pháp Loa và Trúc lâm Đệ Tam Tổ Huyền Quang Lý Đạo Tái.
Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng trồng nhiều cây xanh tạo cảm giác an lành, là nơi thanh tịnh dành cho cho các phật tử và du khách có thể tìm đến sự an yên, bình thản trong tâm hồn khi đến với nơi đây.
Địa chỉ: đỉnh Non Vua, núi Phượng Hoàng - ngọn núi cao nhất trong dãy Nham Biền, thôn Minh Phượng, thị trấn Nham Biền, huyện Yên Dũng, Bắc Giang (cũ), tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Chùa Vĩnh Nghiêm, còn được gọi là chùa Đức La, là một ngôi chùa cổ tại làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa Vĩnh Nghiêm - Bắc Giang là ngôi chùa cổ, là nơi lưu giữ lại bộ mộc bản gốc duy nhất của Phật phái Trúc lâm. Đã được UNESCO trao Bằng công nhận 3000 mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu ký ức thế giới.
Chùa được công nhận là một trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng đồ cho cả nước, nơi phát tích Tam Tổ phái Thiền Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam. Năm 2015, chùa được Nhà nước Việt Nam công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.
Chùa Vĩnh Nghiêm tọa lạc nơi hợp lưu của sông Lục Nam và sông Thương (gọi là ngã ba Phượng Nhãn). Chùa nhìn ra ngã ba sông, phía Lục Đầu Giang - Kiếp Bạc, vùng Cẩm Lý cửa ngõ ra vào núi Yên Tử. Bao quanh chùa là núi non trong đó có núi Cô Tiên. Bên kia sông là vương phủ của Trần Hưng Đạo, đền Kiếp Bạc.
Tương tuyền chùa Vĩnh Nghiêm được khởi dựng vào thời Lý (thế kỷ XI). Cuối thế kỷ XIII, (1010-1028) Phật hoàng Trần Nhân Tông cho mở mang, xây dựng nơi đây thành trung tâm Phật giáo lớn của thời Trần, đổi tên chùa là Vĩnh Nghiêm, gắn liền với sự ra đời và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Với vai trò là một trong chốn tổ của thiền phái, chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng với quy mô kiến trúc bề thế, nhiều hạng mục, mang tính quy chuẩn, mẫu mực của kiến trúc chùa tháp truyền thống. Đây là ngôi chùa cổ có kiến trúc giàu bản sắc Phật Việt nhất mà không ngôi chùa nào trong vùng có được, xứng danh là một “đại danh lam cổ tự”.
Trong chùa còn thờ Tượng Phật, tượng các vị Tổ dòng Trúc Lâm, tượng các vị sư Tổ sau này, tượng Hộ pháp, tượng La Hán… Trong chùa còn có chiếc mõ dài gần nửa mét, được sơn đen bóng, lỗ thoát âm có đề hai dòng chữ Phạn. Chùa Vĩnh Nghiêm xưa là nơi đào luyện tăng đồ Phật giáo nên là nơi tàng trữ để các bộ ván kinh xưa rộng tới 10 gian nhà. Đó là những bộ ván kinh có từ 700 năm nay, là kho sách cổ vô cùng quý giá, như: Sa di tăng Sa di lì tỷ khiêu lỵ (348 giới luật), bộ Yên Tử nhật trình từ thế kỷ 15 (quá trình hình thành phái Trúc Lâm), Hoa nghiêm sớ, Di đà sớ sao, Đại thừa chỉ quán, Giới kinh ni... Ngày nay có nhiều kệ ván in kinh sử vẫn còn tại chùa. Người xưa gọi đây là khắc in, minh chứng chùa Vĩnh Nghiêm từng thống lãnh 72 chốn tùng lâm.
Hiện nay, kho mộc thư vẫn lưu giữ được 34 đầu sách với gần 3000 bản khắc, mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt 2 trang sách khắc ngược (âm bản) khoảng 2000 chữ Nôm, chữ Hán. Những bản khắc đó vẫn được lưu truyền tại nước ta với từng nét chữ sắc xảo, tinh tế. Ngày nay, những giá trị đó vẫn còn giữ nguyên bản, không bị hao mòn giá trị.
Diện tích chùa khoảng 1 ha, bao quanh chùa là lũy tre dày đặc. Hiện nay, chùa được tu tạo và tạo điều kiện thuận lợi cho du khách đến du lịch và lễ bái. Du khách có thể đi theo lộ trình như: cổng tam quan, đi sâu vào khoảng 100m nữa là bái đường hay còn gọi là chùa Hộ. Hai bên đường chùa được xây dựng những khóm thông khoảng tầm 1m để tạo thành tùng lâm.
Trên sân chùa có một bia đá to, gồm 6 mặt dựng năm Hoằng Định thứ 7 (1606). Ngay trước mặt tấm bia cổ là vườn tháp mộ của 5 vị sư: Phù Lãng Trung pháp (hiệu Sa môn), Thông Duệ ứng Duyên, Thanh Quý, Tịnh Phương Sa môn, Thanh Hanh và một số tháp khác.
Sau khi đã qua cổng tam quan, du khách có thể đi đến Toà tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện, Nhà tổ đệ nhất, Gác chuông, Nhà tổ đệ nhị, Hai dãy hành lang đông tây. Mỗi một kiến trúc tại đây đều được tu sửa theo lối cổ xưa để không làm mất bản sắc văn hóa hàng ngàn năm. Năm 1964 chùa được xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hoá cấp Quốc gia.
Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức vào ngày 14 tháng 2 âm lịch, thu hút đông đảo người dân địa phương và khách du lịch trong và ngoài nước tới dự.
Địa chỉ: làng Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, Bắc Giang (cũ), tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Khu di tích chùa Bổ Đà là một danh lam cổ tự nổi tiếng của vùng Kinh Bắc xưa nay thuộc địa phận hành chính của xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Chùa Bổ Đà - ngôi cổ tự nổi tiếng tỉnh Bắc Giang, là trung tâm Phật giáo Thiền tông, địa chỉ lịch sử nổi bật trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Chùa Bổ Đà ra đời từ thế kỷ XI, được xây dựng lại khang trang nhất vào năm 1720 đời vua Lê Dụ Tông năm thứ nhất, niên hiệu Bảo Thái; thời kì thịnh vượng nhất của phật giáo Thiền tông. Ở thời buổi chùa khai sơn luôn gắn liền với các câu chuyện về Quan Thế Âm hiển linh; ban con cái, ban điều tốt lành. Với sự màu nhiệm hiện thành người dân nơi đây còn gọi chùa Bổ Đà là chùa Quán Âm, Chùa Thượng, Chùa Tam Giáo hay Tứ Ân Tự, …
Chùa Bổ Đà với diện tích 100.000m2, trải dài trên vùng núi Bổ. Với khu chùa chính là Tứ Ân tự, bên phải chùa là khu một tháp, phía trên là am Tam Đức, chùa Cao, Đền Đức Thánh Hóa, đền thờ Thạch Tướng Quân,…cùng những cây di sản trăm năm và khu rừng thông già tĩnh lặng.
Khu di tích chùa Bổ Đà gồm: Chùa cổ có tên là chùa Bổ Đà (hay còn gọi là chùa Quan Âm, hay Chùa Cao), chùa chính Tứ Ân Tự, Am Tam Đức, Vườn tháp và Ao Miếu. Ngoài ra trên núi Bổ Đà còn có đền thờ Đức Thánh Hóa (tức Thạch Linh Thần tướng – người có công giúp vua chống giặc ngoại xâm).
Chùa Bổ là một trong những nơi còn giữ nguyên bản nét kiến trúc truyền thống Việt cổ. Tuy nhiên, lại có kiến trúc độc đáo và khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam với gần một trăm gian liên hoàn được xây dựng bằng các vật liệu dân gian: gạch nung, ngói, tiểu sành..., tường bao được làm bằng đất rất độc đáo. Các bức tường, cổng và một số công trình khác được xây dựng hoàn toàn bằng đất nện theo lối chình tường. Cổng vào chùa nền lát đá muối có kích thước to nhỏ khác nhau, xây theo kiến trúc thời Nguyễn mang dáng dấp gác chuông. Điểm đặc biệt ở đây là nhiều bức tường được xây bằng tiểu tạo vẻ rất trầm mặc, gần gũi với vùng thôn quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Chùa chính Tứ Ân tự, Là một trong các hạng mục của Di tích chùa Bổ Đà, chùa được xây dựng vào thời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), Tứ Ân Tự hiện vẫn bảo tồn và giữ nguyên vẹn những nét kiến trúc cổ xưa. Chùa có kiến trúc độc đáo, khác biệt so với những ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, đó là lối kiến trúc “nội thông, ngoại bế” tạo nên không gian u tịch, thanh vắng, linh thiêng.
Tường đất- nét độc đáo của ngôi chùa, Tường đất từ cổng vào và bao quanh khu nội tự chùa Tứ Ân được xây dựng theo lối tường trình với độ cao từ 1,8- 5m, được trình từ thấp tới cao bằng lọai đất sỏi son trên núi Bổ Đà, trên đỉnh tường được che bằng các mảnh gốm, chum, vại... vỡ của Thổ Hà. Trải qua thời gian, các bức tường trình đã bị mưa thấm, ngả màu rêu phong càng làm tăng thêm vẻ cổ kính cho ngôi chùa.
Khu nội tự gồm 18 tòa nhà ngang, dãy dọc kết nối liên hoàn với tổng số gần 100 gian. Các chất liệu xây dựng được làm bằng gạch nung, ngói, tiểu sành và hệ thống tường bao được trình bằng đất rất độc đáo và bền vững. Cổng vào chùa nền lát đá muối có kích thước to nhỏ khác nhau.
Trong chùa còn lưu giữ “Bộ mộc bản kinh phật” được khắc trên gỗ thị, với gần 2.000 bản khắc bằng chữ Hán, chữ Phạn và chữ Nôm truyền lại những giá trị của tư tưởng Phật giáo Thế giới nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Đã trải qua nhiều thế kỷ, bộ Mộc bản kinh hiện nay vẫn còn khá nguyên vẹn, không bị mối mọt, dù không dùng một loại thuốc bảo quản nào. Kinh được khắc nổi bằng chữ Hán để lưu truyền lại cho đời sau.
Vườn tháp lớn nhất Việt nam, Đặc biệt “vườn tháp chùa Bổ Đà” được đánh giá là đẹp và lớn nhất Việt Nam. Vườn tháp được xây dựng theo những quy định riêng và rất chặt chẽ của thiền môn. Với hơn 100 ngôi tháp được xếp hàng hàng, lớp lớp, nơi tàng lưu xá lị, tro cốt nhục thân của hơn 2.000 vị tăng, ni. Tương truyền nơi đây vào những ngày rằm, những người được khai nhãn sẽ thấy được ánh sánh hừng lên từ những ngọn tháp cổ.
Với những giá trị văn hóa quý báu và ý nghĩa tâm linh to lớn cùng với số lượng thực tế Bộ mộc kinh chùa Bổ Đà đã được Liên minh Kỷ lục thế giới (Worldkings) công nhận là “Bộ mộc bản kinh phật thuộc thiền phái Lâm tế khắc trên gỗ thị cổ nhất thế giới”. Vườn tháp chùa Bổ Đà được Hội kỷ lục gia Việt Nam công nhận là “Vườn tháp lớn nhất Việt Nam”.
Am Tam Đức, được xây dựng cùng thời gian với chùa Tứ Ân. Các tổ tu tại chùa đặt tên am là “Tam Đức” vì mong ước người tu hành tại đây sẽ thông tuệ được ba đức tính: Trí đức, Đoạn đức và Ân đức. Đây cũng là nơi thờ tự tổ tu Phạm Kim Hưng sau khi cụ viên tịch.
Chùa Cao (chùa Quán Âm, chùa Ông Bổ, chùa Bổ Đà). Chùa thờ duy nhất Phật bà Quan Âm Tống Tử. Tương truyền, chùa Cao được xây dựng thời nhà Lý (TK XI), chùa là nơi cầu tự (cầu con) rất linh ứng. Tường chùa được trình bằng đất (dầy hơn 1m). Chùa tọa lạc tại vị trí được cho là ức của con chim Phượng, trên dãy núi Phượng Hoàng.
Ao Miếu, Là một trong những di tích thuộc khu di tích chùa Bổ Đà, tọa lạc tại trung tâm thôn Hạ Lát. Ao Miếu hay còn gọi là Đền Hạ thờ Thần Đá (Thạch Linh Thần Tướng) và Mẫu Đá. Theo truyền tích đây là nơi Thạch Linh Thần Tướng đã được sinh ra.
Gắn liền với di tích Chùa Bổ Đà là Lễ hội chùa Bổ Đà (còn gọi là Hội Chùa Bổ), Lễ hội được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 18 tháng hai âm lịch hàng năm tại khu vực núi Bổ Đà, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên nay là thị xã Việt Yên, đó là ngày giỗ tổ khai sơn lập ra chùa. Cùng với những cuộc tế lễ trang nghiêm, thành kính, ở Lễ hội chùa Bổ Đà còn có một số trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, cướp cầu, đu... và triển lãm cây cảnh. Đặc biệt là trong lễ hội chùa Bổ Đà còn có tổ chức Liên hoan hát quan họ huyện Việt Yên - một sân chơi văn hóa lành mạnh lại có ý nghĩa lớn trong việc bảo tồn và phát huy một di sản văn hóa phi vật thể lớn của dân tộc. Đến với Lễ hội chùa Bổ Đà, quý du khách sẽ được tận mắt thăm một vùng danh thắng với các truyền tích, huyền thoại về đá cũng như một tập tục thờ “Thạch linh thần tướng” rất cổ kính của Bắc Giang, được cảm nhận vẻ đẹp của núi sông nơi bờ Bắc sông Cầu sơn thủy hữu tình, được thấy cuộc sống của các nhà sư tu hành nơi thiền viện...
Với những giá trị đặc biệt, ngày 31 tháng 1 năm 1992, chùa Bổ được công nhận là di tích Kiến trúc - Nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 138/QĐ của Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao và ngày 22 tháng 12 năm 2016 được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt theo Quyết định số 2499/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ do Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam ký phê duyệt.
Di tích và lễ hội chùa Bổ Đà xứng đáng trở thành một điểm đến cho du khách tham quan, chiêm bái những giá trị văn hóa đặc sắc chùa Bổ Đà và tìm hiểu về văn hóa bờ Bắc sông Cầu.
Địa chỉ: núi Bổ Đà Sơn thuộc xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, Bắc Giang (cũ), tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Chùa Phúc Quang hay còn gọi là chùa Ba Nước, tọa lạc trên một khu đất cao ở thôn Ruồng Cái, xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Mặc dù được xây dựng cách đây gần 300 năm, trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử và tác động của thiên nhiên, song đến nay, ngôi chùa vẫn giữ được gần như nguyên vẹn, ẩn chứa nhiều giá trị về mặt kiến trúc, lịch sử, văn hóa.
Theo tấm văn bia còn lưu lại chùa cho biết chùa được thành lập từ mùa xuân năm Long Đức thứ ba (1734) dưới đời vua Lê Thuần Tông, bên cạnh một ngôi chùa cổ hơn do sư cụ Chiếu Chiêm kêu gọi nhân dân hợp sức xây dựng.
Trong suốt những năm kháng chiến, mặc dù các xã xung quanh bị bom đạn oanh tạc đến xơ xác, riêng chùa Phúc Quang và xã Tiên Lục vẫn được bảo vệ an toàn. Nhân dân địa phương do đó càng tin chắc rằng chính ngôi chùa cổ đã trấn giữ vùng đất này, giúp họ an cư lạc nghiệp.
Năm 1989 chùa đã được xếp hạng di tích kiến trúc – nghệ thuật quốc gia.
Truyền thuyết về ngôi chùa cổ không có sư trụ trì
Theo dân kể, xưa kia có một vị vua mặc thường phục vi hành, vô tình đi qua ngôi chùa Phúc Quang. Vì trước đó có hiềm khích với đạo Phật nên vị vua này đã để lại lời nguyền: bất kỳ nhà sư nào cũng không được ở trong chùa này. Người dân nghĩ đó chỉ là câu nói buột miệng của vua nên không để tâm.
Cho đến sau này, có một thiền sư được giao đến trông nom chùa, nhưng vừa bước tới Tam Bảo đã bị rắn cắn nên sợ quá bỏ chùa. Những vị sư tiếp đó đến chùa chỉ ở được một thời gian rồi cũng phải ra đi. Dân chúng khi ấy mới nhớ đến vị vua lạ và bắt đầu lan truyền câu chuyện rắn thần ứng nguyện lời nguyền cản bước các vị sư.
Gần đây nhất có sư Huệ Cửu về trụ trì từ năm 2010. Tuy nhiên, chưa đầy 3 năm sau, sư gọi xe giữa đêm, thu dọn hành lý bỏ đi không lời từ biệt, đến sáng người dân trong làng mới biết. Sau đó không ai nghe tin gì về sư Huệ Cửu nữa. Tiếp theo có vài vị sư khác đến thăm chùa cũng muốn ở lại, nhưng sau khi thắp hương khấn vái và nhìn cây hương có dòng chữ Nho họ đều lẳng lặng ra đi, không bao giờ trở lại…
Chùa Phúc Quang gần đây phần lớn đã được trùng tu, nhìn chung vẫn mang dáng vẻ của nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Chùa tọa lạc trên một gò đất thấp, mặt quay hướng nam nhìn ra một sân gạch rộng có những cây nhãn lâu năm, xa hơn là vườn cổ thụ. Bên tiền đường hữu là dãy nhà giải vũ 3 gian 2 dĩ, bên tả là mặt sau của ngôi đình làng cũng mới tu sửa.
Chùa được xây dựng với mặt bằng theo hình “nội Công ngoại Quốc”. Tiền đường rộng 7 gian cửa bức bàn, hai bên thiêu hương có cặp tượng Hộ Pháp khá to. Thượng điện gồm đầy đủ những pho tượng Bắc Tông, ánh sáng chủ yếu lấy từ hai cửa ngách thông sang hai dãy hành lang nơi đặt các pho tượng La Hán và Bát bộ Kim Cương. Tất cả các tượng đều mới tô lại. Phía cuối hai hành lang nối liền tòa hậu đường làm theo kiểu hai tầng chồng diêm, có cầu thang dốc để lên gác chuông.
Hiện nay chùa vẫn lưu giữ được chiếc chuông lớn từ thời Lê và khoảng 90 pho tượng Phật giáo quý giá. Tuy nhiên những mảng điêu khắc gỗ đá hầu như đã không còn nữa.
Lễ hội chùa Phúc Quang gắn liền với lễ hội của cụm di tích đình- đền- chùa Tiên Lục. Trước kia, lễ hội Tiên Lục được các giáp đứng ra tổ chức theo hình thức luân phiên. Hằng năm, lễ hội diễn ra vào ngày 8, 9 tháng Giêng. Tuy nhiên, ngày nay, lễ hội được tổ chức sang ngày 18, 19, 20 tháng Ba Âm lịch để kỷ niệm ngày khánh thành thành chùa Phúc Quang sau khi được trùng tu từ năm 1707 và cũng là ngày giỗ Sư tổ Nguyễn Đức Tính- người có công lớn trong việc trùng tu và tôn tạo chùa. Từ đó đến nay, năm nào cũng vậy, lễ hội Tiên Lục được tổ chức trang nghiêm mang diện mạo, sắc thái của lễ hội dân gian theo nghi thức cổ truyền. Phần lễ của chùa được tổ chức trang nghiêm, đến phần hội, với nhiều trò chơi dân gian độc đáo như chơi đu, kéo co, chọi gà…, với sự tham gia của đông đảo nhân dân cùng du khách thập phương. Đặc biệt là tục kéo chữ “Thiên hạ Thái bình” và trò chơi cướp cầu là đặc sắc nhất trong phần hội. Tục kéo chữ là cuộc thi tài, khéo, thi đẹp của các trai đinh trước sự chứng kiến của nhân dân và du khách thập phương thể hiện ước nguyện về cuộc sống thái bình, ấm no, hạnh phúc.
Địa chỉ: thôn Ruồng Cái, xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, Bắc Giang (cũ), tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử thuộc địa phận các huyện Sơn Động, Lục Nam và Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Nơi đây được biết đến là một quần thể các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh gắn liền với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và con đường hoằng dương phật pháp của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Khi nói tới Tây Yên Tử phải nói tới dòng thiền Trúc Lâm. Thiền phái Trúc Lâm là dòng thiền mang triết lý thuần Việt, do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập ở thế kỷ XIII. Thiền phái Trúc Lâm là linh hồn của hệ thống non thiêng Yên Tử, nó trở thành niềm tự hào của mỗi người dân đất Việt. Hành hương về Tây Yên Tử, du khách vừa được chiêm bái thắng tích tôn giáo nổi tiếng và cảm nhận vẻ đẹp bình yên, thơ mộng của vùng đất Bắc Giang. Núi Yên tử nằm trên cánh cung Đông Triều ôm gọn vùng đông bắc Việt Nam, sườn đông chủ yếu thuộc tỉnh Quảng Ninh, sườn tây thuộc các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và Yên Dũng tỉnh Bắc Giang. Hiện tại khu vực Tây Yên tử còn lưu lại nhiều di tích, công trình lịch sử-văn hóa liên quan đến tôn giáo, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất là vào thời Lý-Trần. Với hệ thống các chùa tháp, di tích lịch sử-văn hóa và sự kỳ vĩ của núi rừng trùng điệp, thảm thực vật và nhiều loài động vật phong phú đã tạo nên một Yên Tử đầy tiềm năng. Cùng với Đông Yên Tử của Quảng Ninh, Tây Yên Tử Bắc Giang được phối hợp, kết nối thành quần thể danh thắng Yên Tử thống nhất, tạo điều kiện cho phát triển du lịch, phát huy các di sản văn hóa mà cha ông ta để lại.
Khu du lịch Tây Yên Tử được khởi công xây dựng năm 2014 và đưa vào khai thác giai đoạn I năm 2019. Khu du lịch được ưu ái nằm bên khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tửvới hàng nghìn hecta rừng nguyên sinh cùng nhiều loài động vật hoang dã. Đây chính là lợi thế trong việc mang đến cho du khách cả nước những trải nghiệm khác biệt trong suốt quá trình tham quan, hành hương về vùng đất Phật. Quy hoạch tổng thể của KDL được chia thành 02 phân khu chức năng: phân khu tham quan sinh thái – tâm linh và phân khu nghỉ dưỡng sinh thái – giải trí. Phân khu tham quan sinh thái – tâm linh gồm các hạng mục chính như: quảng trường trung tâm, vườn ngũ hành, đồi vô cực – hệ thống 10 bức tượng tái hiện hành trình cuộc đời Phật hoàng, tuyến cáp treo, chùa Hạ và chùa Thượng. Ngoài ra, ở phân khu này còn có một số công trình dịch vụ khác như bãi đỗ xe, hồ điều hòa, nhà hàng ven suối…
Khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử được chia làm nhiều khu chức năng:
Khu tâm linh chính: Chùa Hạ, Chùa Trung, Chùa Thượng: xây dựng trên thế núi, mô phỏng hành trình tu hành từ thấp lên cao. Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông (cao gần 11m, nặng 39 tấn): đặt tại Chùa Thượng, biểu tượng thiêng liêng của khu di tích.
Cáp treo Tây Yên Tử: Đưa khách từ Chùa Hạ lên Chùa Thượng, đi qua rừng nguyên sinh, đồi đá cổ – tạo trải nghiệm tâm linh kết hợp sinh thái.
Các công trình phụ trợ: Khu đón tiếp – quảng trường – nhà trưng bày Phật giáo Trúc Lâm, nhà khách, bãi xe, khu lễ hội...Du lịch và lễ hội:
Lễ hội Xuân Tây Yên Tử (mùng 4 tháng Giêng hàng năm) đã trở thành lễ hội lớn của Bắc Giang, thu hút hàng chục nghìn du khách.
Hành trình hành hương từ Chùa Vĩnh Nghiêm – chùa Am Vãi – Chùa Hạ – Chùa Trung – Chùa Thượng là “Con đường Hoằng dương Phật pháp của Trần Nhân Tông”.
Tây Yên Tử đang được kỳ vọng trở thành trung tâm Phật giáo – du lịch tâm linh trọng điểm phía Bắc, kết nối tam giác du lịch Yên Tử – Tây Yên Tử – Côn Sơn – Kiếp Bạc.
Địa chỉ: thị trấn Tây Yên Tử, xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động, Bắc Giang (cũ), tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Tổng hợp từ Internet