Việt Nam

[Bản Đồ Tâm Linh] Hưng Yên mới – Nơi hội tụ tinh hoa tín ngưỡng Bắc Bộ

Blog


Từ ngày 01/07/2025, hai tỉnh giàu truyền thống văn hóa và lịch sử là Hưng Yên và Thái Bình chính thức hợp nhất, hình thành Tỉnh Hưng Yên mới với trung tâm chính trị – hành chính đặt tại thành phố Hưng Yên. Sự kiện này không chỉ đánh dấu bước ngoặt phát triển kinh tế – xã hội, mà còn là dịp để tôn vinh và kết nối những giá trị văn hóa – tâm linh đặc sắc của vùng châu thổ sông Hồng.

freSy with passion

Hưng Yên – miền đất “phố Hiến xưa” vang bóng một thời, và Thái Bình – quê hương năm tấn, nơi hội tụ những làn điệu chèo mượt mà, đều sở hữu hệ thống đền, chùa, miếu mạo cổ kính. Từ Chùa Chuông, Chùa Nôm, Chùa Thái Lạc... ở Hưng Yên đến Chùa Keo, Đền Đồng Bằng, Đền Tiên La... ở Thái Bình – mỗi công trình đều là một dấu ấn lịch sử, phản ánh đời sống tín ngưỡng phong phú và chiều sâu văn hóa của cư dân đồng bằng Bắc Bộ.

Bài viết này sẽ cùng bạn bước vào hành trình khám phá những ngôi đền chùa tiêu biểu, tìm hiểu lịch sử, kiến trúc và giá trị tâm linh của chúng, qua đó cảm nhận vẻ đẹp trường tồn của văn hóa Hưng Yên mới – nơi quá khứ và hiện tại hòa quyện trong từng mái chùa, nếp đền.

Chùa Chuông - Hưng Yên

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Chuông có tên chữ là Kim Chung Tự (金鍾寺) nằm tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên. Chùa Chuông nằm trong quần thể di tích Phố Hiến và được mệnh danh là "Phố Hiến đệ nhất danh thắng".

Lịch sử

Chùa Chuông được xây dựng từ thời Hậu Lê (thế kỷ XV) và trải qua một cuộc trùng tu lớn vào năm 1707 tạo nên chùa hoàn chỉnh như ngày nay.

Theo như được nghe kể lại từ những người cao tuổi địa phương thì xưa kia chùa chuông được người tàu làm ăn ở phố hiến xưa xây dựng nên và lấy tên là kim trung tự (vàng trong chùa), lí do là trong chùa trước kia các hoành phi câu đối, tượng phật... được sơn son thiếp vàng. Nhưng vào một năm nọ phương bắc gặp một trận đại hồng thủy chưa từng có trong lịch sử làm cho nhiều ngôi chùa ở phương bắc bị phá hủy do mưa lũ năm đó. Và có nhiều hiện vật bị mất và trôi nổi trên sông Hồng Hà (sông hồng), trong đó có một quả chuông ở chùa chuông. Điều kỳ lạ là dù quả chuông rất nặng nhưng nó lại nổi và trôi đến khu vực bãi sông thuộc địa phận thôn Nhân Dục, tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên xưa (nay thuộc phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên). Chuông cứ trôi loanh quanh tại đây rồi được người làm nghề chài lưới ở thôn Nhân Dục phát hiện. Sau đó về hô hào dân làng và mời nhà chùa ra làm lễ... Dù trước đó các nơi đua nhau kéo chuông về địa phương mình nhưng đều không được, chỉ có những bô lão thôn Nhân Dục mới kéo được chuông. Dân làng cho đó là điềm lành trời phật phù hộ và chuông vốn là của chùa nên sau đó đã đưa về chùa chuông rồi góp công, góp của để xây dựng thêm. Mỗi lần đánh chuông, tiếng vang rất xa và tiếng chuông rất hay khác biệt hẳn những chuông khác.

Lúc bấy giờ, vua quan Bắc quốc lo sợ mỗi khi chuông thỉnh, các báu vật mà chúng cướp được sẽ trở về chủ cũ. Do đó chúng âm mưu đóng giả làm cao tăng đến chùa để hòng đánh cắp chuông vàng. Biết được âm mưu ấy, các Tăng ni tại chùa đã âm thầm giấu chuông vào chiếc giếng nhỏ. Dần dần, những người biết về vị trí cất giấu chuông đều viên tịch, hậu thế muốn tìm lại nhưng không thể thấy. Để nhớ đến chuông vàng đã từng ở chùa, các Tăng ni cùng người dân đã đổi tên ngôi chùa ấy thành Kim Chung Tự, có nghĩa là chùa Chuông Vàng, hay còn được gọi tắt là chùa Chuông.

Năm 1992, chùa Chuông đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Chuông có kết cấu kiểu "Nội công ngoại quốc", bao gồm các hạng mục: Tiền đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà mẫu và 2 dãy hành lang. Mặt tiền chùa quay hướng Nam, đó là hướng của "Bát Nhã" và "Trí Tuệ". Chùa được bố trí cân xứng trên một trục trải dài từ cổng Tam quan đến Nhà tổ. Qua cổng Tam quan là tới ba nhịp cầu đá xanh, bắc ngang qua ao (mắt rồng), cây cầu được xây dựng năm 1702. Tiếp đến là con đường độc đạo được lát đá xanh dẫn thẳng đến nhà tiền đường, theo quan niệm nhà Phật là con đường chân chính dẫn dắt con người thoát khỏi bể khổ.

Nhà Tiền đường có quy mô năm gian hai chái, kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu sen. Nối giữa tiền đường và Thượng điện là khoảng sân, giữa sân có cây hương đá còn gọi là "Thạch trụ", bốn mặt khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân đóng góp tu sửa chùa.

Thượng điện cũng gồm năm gian hai chái, kết cấu giống nhà Tiền đường, mang đậm nét kiến trúc thời Hậu Lê. Hệ thống tượng ở thượng điện được bài trí theo thứ tự: trên cùng là 3 pho Tam Thế; tiếp đến là A-di-đà và tứ Bồ-tát; lớp dưới là Văn Thù và Phổ Hiền; tiếp theo là Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu; tiếp nữa là Địa Tạng Vương và Phạm Thiên, Đế Thích; sau cùng là tòa Cửu Long và tượng Thích Ca sơ sinh.

Ở hai đầu phía Đông và phía Tây nối nhà Tiền đường và nhà Mẫu là hai dãy hành lang, kiến trúc kiểu kèo cầu quá giang đơn giản. Hai dãy hành lang được bài trí đối xứng các lớp tượng khác nhau. Đầu tiên là động "Thập điện Diêm Vương", diễn tả cảnh nhục hình mà con người phải trải qua nơi âm giới. Đây là triết lý nhân quả của nhà Phật, người ta tin rằng con người sống trên dương thế, khi từ giã cõi đời phải trải qua 10 cửa điện để Diêm Vương xét hỏi công và tội. Ứng với mỗi tội đồ là một hình phạt tương ứng. Tiếp đến là tượng Bát Bộ Kim Cương, sau đó là 18 pho "Thập Bát La Hán", 18 vị được tạo tác trong tư thế ngồi rất sinh động, rất đời thường. Nét độc đáo của tượng "Thập Bát La Hán" không phải chỉ ở sự khéo léo trong cách tạo tác mà còn ở cảm xúc nội tâm được biểu hiện qua từng khuôn mặt buồn, vui, trầm tư... mỗi người một vẻ. Cuối dãy hành lang là tượng Đức Ông đứng cạnh có Già Lam - Chân Tể và tượng Đức Thánh Hiền, đứng cạnh có Diệm Nhiên - Đại Sĩ.

Một trong những hiện vật có giá trị nhất còn lưu giữ lại chùa là tấm bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711), bia ghi tên những người công đức tu sửa chùa. Phần đặc biệt của bia ghi lại cảnh đẹp của Phố Hiến và một số phường, như: Phường Hàng Bè, Hàng Sũ, Thợ Nhuộm, Cự Đệ, Hàng Thịt... mà nay chỉ còn trong dĩ vãng.

Hằng năm, vào dịp đại lễ Phật Đản, dịp xuân về, Chùa Chuông lại tổ chức lễ hội, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và khách thập phương. Chùa Chuông cùng các danh thắng khác trong quần thể di tích Phố Hiến là một điểm đến không thể bỏ qua của du khách đến Hưng Yên.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: khu di tích Phố Hiến, thôn Nhân Dục, đường Văn Miếu, phường Hiến Nam, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Hiến - Hưng Yên

freSy with passion

Giới thiệu

Nằm trong quần thể di tích phố Hiến, Chùa Hiến Hưng Yên là một trong những ngôi chùa nổi tiếng và có giá trị lịch sử vô cùng quý giá tại Việt Nam. Nơi đây không chỉ là điểm đến tâm linh của người dân địa phương mà còn thu hút du khách bởi vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc và những giá trị tâm linh, lịch sử được gìn giữ qua nhiều thế hệ.

Chùa Hiến Hưng Yên (hay còn gọi là Thiên Ứng Tự) là một ngôi chùa cổ nằm trên đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thị xã Hưng Yên. Ngôi chùa nằm trong quần thể di tích Phố Hiến nổi tiếng và được xây dựng để thờ Phật và Quan Âm Nam Hải với mục đích khuyên con người sống hướng thiện và có đạo đức.

Lịch sử

Theo tương truyền, chùa Hiến được xây từ đời Trần, cụ thể là dưới thời vua Trần Thái Tông (1232 - 1250) do vị quan Tô Hiến Thành có công xây dựng. Chùa đã trải qua 2 đợt tu sửa và trùng tu lại vào năm 1625 và 1709. Đến năm 1992, chùa Hiến đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của ngôi chùa trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lịch sử của đất nước.

Không chỉ là một Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia, vào năm 2012, chùa Hiến còn được ghi nhận một kỷ lục nữa - đó là ngôi chùa có cây nhãn Tổ đầu tiên tại Việt Nam. Điều này góp phần làm tăng thêm giá trị về mặt kinh tế và du lịch cho ngôi chùa.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Kiến trúc độc đáo của chùa Hiến mang đậm nét văn hóa thời Hậu Lê, với một số công trình kiến trúc như Tiền đường, Chính môn, Hậu đường, hai dãy Hữu Vũ và Tả Vũ, nhà Mẫu và nhà Tổ. Ngôi chùa nổi tiếng với bầu không khí yên bình nên thu hút rất nhiều du khách đến tham quan, cầu may mắn và tài lộc.

Chùa Hiến Hưng Yên là một ngôi chùa có kiến trúc đẹp và có ý nghĩa lịch sử ở Việt Nam. Kiến trúc của chùa được xây dựng theo bố cục kiểu "nội công ngoại quốc" gồm tiền đường, thượng điện, thiên hương và ba mặt hành lang.

Thượng điện có tượng Quan Âm Nam Hải tám tay, cũng như tượng bốn vị Bồ tát đang ngự trên tòa sen, tất cả đều được đúc vào thế kỷ 19. Vị trí đặt những bức tượng này tại thượng điện nhằm thể hiện cho sự tôn kính với những vị thần đã cứu giúp chúng sinh.

Tam quan của chùa là một công trình kiến trúc ấn tượng với hai tầng tám mái. Tiền đường có 3 gian và được thiết kế đơn giản, trong khi phòng thiên hương cũng có 3 gian nhưng được thiết kế hình vòm chịu ảnh hưởng của nghệ thuật thời trung cổ phương Tây và phong cách của các nhà thờ Thiên chúa giáo. Tam gian của thượng điện được thiết kế theo phong cách truyền thống Việt Nam với các kèo chồng lên nhau và hai hàng cột. Đặc điểm nổi bật nhất của ngôi chùa là các đao mái phần trên và phần dưới, thường có hình ảnh cách điệu của phượng và rồng.

Chùa Hiến Hưng Yên cũng tự hào có hai tấm bia đá vô cùng giá trị, cung cấp cái nhìn sâu sắc về lịch sử hình thành phố Hiến. Tấm bia thứ nhất là “Thiên ứng tự - Tân tự trùng tự ký thạch bi”, được xây dựng vào năm 1625 dưới thời Vĩnh Tộ 7, ghi chép việc thành lập trấn Hiến. Tấm thứ hai là “Thiên ứng tự bi ký công đức tùy hỷ” dựng năm Vĩnh Thịnh 5 (1709) ghi nhận trấn lúc đó đã có 10 phường.

Cuối cùng, chùa Hiến Hưng Yên là quê hương của cây nhãn tổ (còn gọi là nhãn Tiến) - đã hơn 300 năm tuổi. Loại cây này được biết đến với dáng đẹp, quả lớn, vỏ dày, thịt mềm và hương vị thơm ngon. Trong quá khứ, quả của cây này được thu hoạch cẩn thận để dâng lên Đức Phật, các vị thần hoàng địa phương và tiến vua.

Cứ vào ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm, tại chùa Hiến Hưng Yên lại diễn ra lễ hội truyền thống thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách thập phương tới tham dự.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Nôm - Hưng Yên

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Nôm còn được biết đến với cái tên khác là Linh Thông cổ tự, tọa lạc tại làng Nôm, xã Đại Hồng. Phía Tây chùa tiếp giáp huyện Gia Lâm, Hà Nội; phía Nam giáp với địa phận tỉnh Hải Dương còn phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh nên di chuyển đến đây vô cùng thuận lợi. Bởi thuộc quần thể làng Nôm nên chùa cũng mang vẻ đẹp dân dã như làng quê Việt Nam từ bao đời nay, đặc biệt nét kiến trúc còn đậm nét Phật giáo từ thế kỷ XVIII. Hiện tại trong chùa vẫn còn lưu giữ rất nhiều pho tượng cổ nhất Việt Nam.

Lịch sử

Ngày nay cũng chẳng ai còn nhớ chùa được bắt đầu xây dựng từ bao giờ. Theo ước lệ của người dân địa phương thì chùa có tuổi đời khoảng chừng hơn 500 năm. Trên hai tấm bia lớn còn được lưu lại trong khuôn viên cho thấy chùa được xây dựng lại vào năm 1680. Đến khoảng gần cuối năm 1998 thì sư Huệ cùng chính quyền và nhân dân địa phương đã cùng nhau chung tay và góp công sức kiến tạo lại chùa.

Truyền thuyết kể lại rằng chùa được xây giữa rừng thông cổ tự nên mới có cái tên khác là Linh thông cổ tự. Dù chùa Nôm mới xây dựng lại khoảng độ 20 năm nhưng vẫn giữ lại được nguyên vẹn kiểu kiến trúc xưa đặc biệt. Tháng 2/1994 đánh dấu mốc đặc biệt trong việc chùa Nôm Hưng Yên được Bộ văn hóa thông tin chứng nhận “Di tích lịch sử văn hóa”.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Nôm mang nét kiến trúc thuần Việt đậm chất, mang dấu ấn Thiền phái Lâm Tế, theo mẫu chữ “Đinh” với ý nghĩa kiên định. Ngoài ra trong chùa còn lưu giữ được rất nhiều bức tượng cổ bằng đồng, trong đó được yêu thích nhất có thể kể đến như Phật Tổ Như Lai, tượng Cửu Long Phật Đản tinh xảo. Theo ước tính, ở chùa Nôm có khoảng 122 bức tượng cổ bằng đất nung hàng trăm năm tuổi như: A Di Đà, Phật bà, Tam thế, Bát bộ kim cương, Thập bát la hán… Hơn nữa ở chùa còn có nhiều bức tượng miêu tả quá trình trưởng thành của đức Phật, bức cao nhất cao đến 3m được chế tác vô cùng công phu và bày biện bên trong gian thờ. Tượng đặt ở hai lối hành lang là tượng La Hán, tượng Tuyết Sơn, tượng Bát Bộ Kim Cương… với đủ kiểu tư thế, hình dáng và kích thước khác nhau. Đại đức Thích Đồng Huệ, trụ trì chùa cho biết các nhà khoa học đánh giá những nếp nhăn trên áo và một số đặc trưng khác của bức tượng ở đây tiêu biểu cho nghệ thuật khắc tượng thế kỷ XVIII. Những họa tiết xuất hiện trong khuôn viên chùa Nôm đều thể hiện được nét đẹp tinh tế và sự điêu khắc công phu của các nghệ nhân. Ẩn dưới những cây cổ thụ lớn niên đại nhiều năm là ngôi chùa cổ kính, rêu phong. Nếu muốn đến được đây đầu tiên chúng ta sẽ phải di chuyển qua cây cầu đá 9 nhịp có tuổi đời 200 năm được in bóng xuống dòng sông Nguyệt Đức. Không gian bên trong một vẻ khác biệt hẳn với hương hoa thanh tịnh thơm ngát đối lập với sự uy nghiêm, trầm mặc lạ thường. Qua khỏi cầu là cổng tam quan, được làm bằng gỗ và lợp mái ngói đỏ vảy cá trông vô cùng cổ kính và mang nét truyền thống của những ngôi chùa xưa miền Bắc. Tiếp đến là lầu chuông, lầu trống nằm hai bên đối xứng nhau. Từ chính điện bạn có thể thấy một hồ nước lớn, ngay trung tâm có kiến trúc hệt như một đóa sen chính là lầu quan âm. Bên cạnh đó, chùa Nôm còn có vườn mộ bằng đá ông, nơi hiếm hoi còn giữ được nguyên vẹn hình thái từ thưở sơ khai ban đầu. Từng cột, kèo gỗ trong chùa đều có giá trị lớn khi được làm từ những loại gỗ quý như lim, sến. Chùa Nôm cũng như nhiều ngôi chùa khác của Việt Nam, có ban chính thờ Đức Phật. Bên cạnh đó ở trong khuôn viên chùa còn có nhiều ban thờ thần linh khác như: Đức Ông, thánh mẫu… Vào những dịp lễ lớn như lễ Phật Đản, Vu Lan… nơi đây thường tổ chức các hoạt động ý nghĩa cho Phật tử tham gia như: thả cá phóng sanh, nghe giảng pháp… Nhờ đó người dân sẽ hiểu được những giá trị, ý nghĩa cao đẹp của Phật giáo mang lại. Vào các mung 10,11,12 tháng Giêng hằng năm, ngôi chùa long trọng chào đón và tổ chức các lễ hội ngày đầu năm mới vui vẻ với nhiều hoạt động trải nghiệm, khám phá hấp dẫn. Tham gia các nghi thức lễ tế và các hoạt động cúng bái tại chùa Nôm Hưng Yên, bạn sẽ được học hỏi thêm nhiều kiến thức mới mẻ và những nét văn hóa đẹp đẽ của truyền thống Việt Nam thời ngàn xưa đó. Chùa Nôm không chỉ là nơi tổ chức các lễ hội truyền thống mà nơi đây còn là địa điểm lý tưởng cho các khóa tu và giảng pháp. Hàng tháng, chùa tổ chức các khóa tu ngắn hạn, tạo điều kiện cho Phật tử đến tu học. Các bài giảng pháp được các sư thầy truyền dạy giúp Phật tử hiểu sâu hơn về giáo lý Phật giáo, ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày. Với những lời giảng dạy sẽ giúp bạn nhẹ nhàng hiểu hơn về nội tâm bên trong mình.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: làng Nôm, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Ông - Hưng Yên

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Ông hay có tên gọi khác là Bản Tịch tự, toạ lạc tại thôn Bình Lương, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm. Ngôi chùa mang vẻ đẹp cổ kính, linh thiêng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông đến nay đã gần 1000 năm tuổi. Đây là niềm tự hào của người dân Văn Lâm nói riêng và là di tích lịch sử văn hóa có giá trị lâu đời của xứ nhãn Hưng Yên.

Lịch sử

Theo văn bia của chùa (nay chỉ còn thác bản hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm), ngôi chùa được khởi dựng dưới thời vua Lý Thần Tông (1128 - 1138). Văn bia mang ký hiệu 5527 - 5528, trên trán bia đề: Bản Tịch tự bi minh, niên đại bia đề thời Lê Chính Hòa thứ 20 (1644), nội dung bia ghi việc thờ đức Thiền sư Từ Đạo Hạnh và ý nghĩa việc đặt tên chùa là chùa Bản Tịch. Nguyên văn bia như sau:

Dịch nghĩa: Chùa ấy vốn là danh lam cổ tích xưa, được gây dựng từ thời vua Lý Thần Tông, Hoàng đế thứ 5 triều Lý. Bên trong phụng thờ Đại thánh Từ Đạo Hạnh tôn giả. Phật nhật hào quang, pháp luân chuyển mãi, bản tính tịch nhiên không hề lay động, thế nhân lấy đó mà đặt tên chùa (là Bản tịch).

Chùa Ông dưới thời Lê là nằm trên địa phận hai thôn Bình Lương, Lương Xá, xã Đình Loan, huyện Gia Lâm, phủ Thuận An thuộc xứ Kinh Bắc. Năm Minh Mạng thứ 13 (1834) đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Tới cuối đời Nguyễn mới gọi là huyện Văn Lâm thuộc tỉnh Hưng Yên. Trong chùa hiện còn tượng đồng Thiền sư Từ Đạo Hạnh, vua Lý Thần Tông (đời thứ 5 nhà Lý - cũng là hiện thân Từ Đạo Hạnh sau sự trút xác ở núi Thầy).

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa được bố trí hài hòa cân xứng theo kiểu chữ Tam bao gồm các hạng mục: Tiền đường, trung từ và hậu cung. Năm 1938, chùa được trùng tu, tôn tạo lại, kết cấu các vì theo kiểu chồng rường bào trơn có điểm hoa văn.

Toàn bộ khung, cột của ngôi cổ tự được làm bằng gỗ lim rắn chắc, kết hợp với kiến trúc cổ chạm khắc công phu tạo cho tòa tiền đường một thế vững chắc mang tính nghệ thuật cao. Đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ xưa của ngôi chùa mang kiến trúc nghệ thuật rất công phu và độc đáo. Bước vào cổng chùa là không gian an yên, tĩnh tại với mái chùa rêu phòng trầm mặc.

Theo sách sử, chùa Ông được vua Lý Thần Tông xây dựng vào mùa xuân. Do vậy, mỗi dịp xuân về, nhân dân thôn Bình Lương nói riêng và nhân dân xã Tân Quang cùng du khách thập phương lại tụ hội về đây mở hội, làm lễ dâng hương để tưởng nhớ đến người đã có công đánh giặc giữ nước, dựng chùa.

Lễ hội truyền thống chùa Ông diễn ra vào 3 ngày, từ ngày 7/3 - 9/3(Âm lịch) trong đó ngày 9/3 là hội chính. Năm 2001, Chùa được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, là niềm tự hào của người dân Văn Lâm.

Điều đặc biệt, dù đã được xây dựng từ rất lâu đời nhưng từ đó cho đến năm 2007 chùa chưa hề có sư trụ trì. Tuy nhiên, ngôi chùa vẫn được nhân dân địa phương gìn giữ, bảo vệ rất tốt. Từ năm 2007 đến nay, Đại đức Thích Minh Hậu đã về trụ trì, ngôi chùa cũng đã được trùng tu tôn tạo khang trang hơn nhiều. Trong tương lai gần, hy vọng ngôi chùa sẽ được đầu tư tu bổ, phục dựng để nơi đây trang nghiêm và tố hảo hơn, góp phần giữ gìn không gian văn hoá tâm linh có giá trị lịch sử của dân tộc.

Trải qua gần 1000 năm lịch sử, chùa đã được trùng tu, phục dựng nhiều lần, đặc biệt là dưới thời Lê Trung Hưng nhưng chùa Ông vẫn giữ được nét cổ kính với lối kiến trúc cũ mang đậm dấu ấn văn hoá thời nhà Lý.

Ngôi chùa bình yên, thoảng hương trầm tịnh mặc luôn rộng mở đón Phật tử, người dân, du khách đến vãn cảnh, cầu bình an. Chiều tàn rơi ở ngôi cổ tự để lại những cảm xúc đặc biệt khiến bước chân du khách như muốn dừng trong khoảng không gian tĩnh tại, quên hết muộn phiền để tâm hồn được vô ưu, thanh thản...

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Bình Lương, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Thái Lạc - Hưng Yên

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Thái Lạc (còn gọi là chùa Pháp Vân, Pháp Vân tự hay chùa Bà Cả), thuộc xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Chùa là nơi thờ Phật và thần Pháp Vân - một trong bốn vị thần Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) có nguồn gốc ở vùng Dâu (tỉnh Bắc Ninh).

Lịch sử

Năm 1162, dưới thời vua Lý Nhân Tông, chùa Thái Lạc được xây dựng trên một gò đất cao, vị trí thuận lợi, đủ gần mà vẫn cách xa khu dân cư. Việc này được ghi chép rõ ràng trong Ngọc phả của chùa, vào năm Đại Định. Theo Ngọc phả, sự kiện Tứ Pháp xảy ra ở Luy Lâu vào khoảng năm 168-169 sau công nguyên, dưới thời Hán Linh Đế, chính là lý do khiến chùa được xây dựng để thờ thần Pháp Vân.

Năm 1673, chùa được tôn tạo và trùng tu lại sau những cuộc chiến khốc liệt của dân tộc. Tuy nhiên, những nét kiến trúc cổ kính của thời Lý vẫn được gìn giữ nguyên vẹn trong thời nhà Trần. Cho đến nay, Thái Lạc là một trong những ngôi chùa có kiến trúc cổ kính bậc nhất Hưng Yên với kho tàng các di vật nghệ thuật điêu khắc bằng gỗ vô cùng quý giá.

Được bắt đầu xây dựng từ thời Lý, chùa Thái Lạc ở Hưng Yên đã trải qua nhiều lần trùng tu, quy mô nhất là dưới thời Trần, lối kiến trúc độc đáo và hòa quyện giữa hai thời kỳ. Sự kết hợp này, cùng với kho tàng di vật quý giá, đã tạo nên sức hút đặc biệt cho ngôi chùa cổ kính này.

Năm 1964, chùa Thái Lạc được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia.

Tên của chùa Thái Lạc mang ý nghĩa to lớn là "quốc thái dân an" như sự mong cầu cho đất nước được thịnh vượng và bình yên. Chính vì vậy, ngôi chùa này đã trở thành điểm du lịch tâm linh ở Hưng Yên thu hút đông đảo người dân cũng như phật tử thập phương đến vãn cảnh, chiêm bái.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Lối kiến trúc "nội công ngoại quốc" đặc trưng được xây dựng ở chùa Thái Lạc Hưng Yên giúp bố trí cân đối giữa các không gian và từng hạng mục sẽ có bố cục rõ ràng. Tất cả các yếu tố này tạo nên một tổng thể hoàn chỉnh, thống nhất theo trục Tây Bắc - Đông Nam, tạo nên điểm tuyệt vời của ngôi chùa. Chùa Thái Lạc nằm theo hướng mặt trời mọc, thể hiện cho sự phát triển và sinh sôi không ngừng.

Chùa Thái Lạc có các hạng mục như: 5 gian tiền đường, 3 gian thượng điện, 2 dãy hành lang mỗi bên chín gian và 7 gian nhà tổ. Khám phá chùa, bạn sẽ bị ấn tượng bởi sự bề thế của hệ thống tượng trong Cung được chạm khắc tinh xảo. Từ những hình rồng uốn lượn uyển chuyển, những dải lụa mềm mại, thanh tao cho đến những hình đầu người mình chim dâng hoa dâng hương,… tất cả đều thể hiện sự tinh xảo và độc đáo trong nghệ thuật điêu khắc của người xưa.

Chùa Thái Lạc ở Hưng Yên, sau khi được trùng tu lớn vào thế kỷ 17-18 đời Trần, vẫn giữ nguyên vẹn kiến trúc độc đáo của mình. Du khách sẽ không khỏi ngạc nhiên trước sự kiên cố của kiến trúc gỗ cổ xưa, đặc biệt là hệ thống gỗ vững chắc làm cột, kèo nâng đỡ phần mái nhà. Hệ thống gỗ được chạm khắc tinh xảo, tạo nên những giá chiêng vô cùng ấn tượng.

Chùa Thái Lạc mang đậm dấu ấn nghệ thuật, mỹ thuật, còn được bảo tồn hút khách tham quan. Từ những họa tiết tinh xảo trên các vì kèo, cột, đến những đường nét chạm khắc tinh tế, công phu, tất cả đều thể hiện tài năng và sự khéo léo của các nghệ nhân xưa. Chính vì thế, chùa được xem là một trong những công trình kiến trúc gỗ lâu đời nhất từ thế kỷ 14 đến nay.

Đến thăm chùa Thái Lạc Hưng Yên, bạn sẽ được chiêm ngưỡng 16 trong số 20 bức phù điêu chạm trổ độc đáo, được đặt ở xà dọc hạ và xà dọc thượng, vẫn còn nguyên vẹn. Ngắm tận mắt những hiện vật chạm khắc gỗ theo kiểu nổi bong tinh xảo còn tồn tại từ thời Lý Trần. Mặc dù đã trải qua hàng trăm năm, những đường nét chạm trổ vẫn mềm mại, huyền ảo, chẳng khác gì những bức tranh.

Những hiện vật không chỉ là dấu ấn của thời gian mà còn mang giá trị lịch sử và văn hóa linh thiêng quý giá của chùa Thái Lạc. Không những thế, chùa còn nổi tiếng với ba tấm bia đá và ba bệ thờ, là những di vật mang nhiều giá trị lịch sử và văn hóa. Bên trên đó, có khắc lại chi tiết quá trình trùng tu và tôn tạo của ngồi chùa này thời Trần khoảng thế kỷ 16 – 17.

Chùa Thái Lạc mở cửa đón du khách tham quan, vãn cảnh quanh năm, suốt tuần. Tuy nhiên, nhộn nhịp và đông đúc nhất là vào ngày lễ hội Cầu mưa hàng năm, diễn ra vào ngày 6 tháng 3 âm lịch. Lễ hội được tổ chức để cầu mong cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa để mùa màng được bội thu, mang lại no đủ, hạnh phúc cho nhân dân.

Lễ hội không chỉ giữ nguyên ý nghĩa truyền thống, mà còn là một nét văn hóa đặc sắc cần được gìn giữ và phát huy. Tại lễ hội Tứ Pháp (Cầu mưa), du khách không chỉ tham gia nghi lễ cầu mưa, mà còn được trải nghiệm những hoạt động vui nhộn như: đánh trăng, đập niêu, kéo co, bịt mắt bắt dê,... Những nét độc đáo này đã thu hút đông đảo du khách đến tham dự, góp phần giữ gìn và quảng bá cho văn hóa truyền thống của nơi đây.

Chùa Thái Lạc không chỉ tổ chức lễ hội Cầu mưa, mà còn diễn ra nhiều hoạt động văn hóa tâm linh khác. Hàng năm, chùa đều tổ chức các lễ hội truyền thống như lễ Phật đản vào ngày 15 tháng 4 âm lịch, lễ Vu Lan báo hiếu vào ngày 15 tháng 7 âm lịch và lễ vía Phật A Di Đà vào ngày 12 tháng 11 âm lịch. Các lễ hội và sự kiện của chùa luôn thu hút đông đảo Phật tử thập phương tham gia, tạo nên không khí trang nghiêm và ấm áp.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Keo - Thái Bình

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Keo còn biết đến với tên gọi khác đó là chùa Thần Quang Tự. Ngôi chùa được xây dựng quy mô lớn nằm tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Từ lâu, dựa theo dòng chảy của sông nhiều người vẫn gọi chùa là “Keo trên” nhằm phân biệt với ngôi chùa Keo dưới của Nam Định.

Với kiến trúc đặc trưng "Nội công ngoại quốc" và vị trí gần dòng sông Hồng thơ mộng, chùa Keo mang vẻ đẹp vừa uy nghiêm vừa thanh bình, tạo nên một không gian tâm linh đặc sắc.

Lịch sử

Theo truyền thuyết, chùa ban đầu được Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng vào năm 1061 dưới triều đại vua Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy, phủ Hà Thanh (nay thuộc tỉnh Nam Định). Tên gọi "Keo" xuất phát từ tên Nôm của làng Giao Thủy.

Năm 1611, do lũ lụt từ sông Hồng, chùa Keo bị hư hại nặng nề. Người dân địa phương đã di dời và xây dựng lại chùa tại hai địa điểm mới: một tại làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định (gọi là chùa Keo Dưới), và một tại làng Dũng Nhuệ, nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (gọi là chùa Keo Trên).

Chùa Keo Thái Bình đã được xây dựng lại vào năm 1630 dưới sự chỉ đạo của Quận công Hoàng Nhân Dũng, một vị quan lớn thời Lê - Trịnh. Với sự đóng góp từ người dân địa phương và nỗ lực không ngừng của Quận công, ngôi chùa được hoàn thành sau 28 tháng xây dựng, vào tháng 11 năm 1632. Mặc dù chỉ được chúa Trịnh cấp 100 cây gỗ lim, nhưng với tinh thần đoàn kết và lòng thành kính, chùa Keo đã được xây dựng quy mô và mang dấu ấn kiến trúc độc đáo của thời kỳ này.

Trải qua gần 400 năm tồn tại, chùa Keo vẫn giữ nguyên nét kiến trúc cổ kính đặc trưng của thời Lê Trung Hưng, bất chấp những biến đổi của thời gian. Đến năm 2012, chùa Keo đã được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt, ghi nhận giá trị lịch sử, văn hóa và tôn giáo to lớn của công trình này.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Keo được đặt tên Hán Việt là Thần Quang Tự. Bên cạnh mục đích thờ Phật, ngôi chùa này cũng tương tự như chùa Keo ở Nam Định khi thờ Thánh Dương Không Lộ (Tiền Phật, hậu Thánh). Vị thánh này là nhà sư thời Lý có kiến thức uyên thâm về Phật giáo. Ngoài ra, nơi đây cũng thờ phụng 1 số người có công lớn xây dựng chùa như: Nguyễn Văn Trụ, Trịnh Thị Ngọc Lễ, Trần Thị Ngọc Duyên, Hoàng Nhân Dũng, Lê Hồng Quốc.

Chùa Keo được xây dựng từ thế kỷ XVII, năm 1632 thời vua Lê Trung Hưng. Toàn bộ quá trình thi công lên đến 28 tháng. Sau nhiều lần tôn tạo, sửa chữa, chùa Keo vẫn giữ lại được gần như nguyên vẹn vẻ đẹp kiến trúc cổ có lịch sử gần 400 năm. Cho đến thời điểm hiện tại, chùa Keo vẫn luôn được đánh giá là một trong những ngôi chùa cổ đẹp nhất Việt Nam.

Trên khu đất lên đến 58.000 m2 có tất cả 157 gian với 21 công trình lớn nhỏ. Hai công trình kiến trúc thờ Phật và Thánh Tổ Dương Không Lộ được bố trí quy mô. Trải dài là hệ thống Chùa Phật, Tam Quan, toà Thượng Điện, Điện Thánh, hành lang, gác chuông, khu tăng xá… Tam quan nội nổi bật với cánh cửa chạm trổ rồng chầu tinh xảo. Từ khu vực này đi qua sân du khách sẽ tới khu Chùa Phật gồm điện Phật, tòa thiêu hương và Chùa Ông Hộ.

Chùa Keo gây ấn tượng bởi lối kiến trúc mang đậm giá trị thuần Việt “Nội công ngoại quốc”, thể hiện sự hài hòa giữa không gian bên trong và ngoài.

  • Nội công: Phần trung tâm với các công trình chính như khu vực thờ Phật, nhà thiêu hương và nhà thờ tổ, được bố trí theo trục dọc hình chữ "Công" (工).
  • Ngoại quốc: Bao quanh là hệ thống hành lang, tường bao và các công trình phụ trợ tạo thành hình chữ "Quốc" (囗).

Điểm nhấn độc đáo của khu Chùa Phật là các pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, La Hán, Tuyết Sơn có lịch sử từ thế kỷ XVII, XVIII. Ngoài ra, 2 dãy hành lang Đông, Tây dài rộng còn được xây dựng uốn quanh khu vực Chùa Phật và Đền Thánh. Mặt trước đi qua Tam quan nội và hàng dậu, mặt sau gắn liền với Gác Chuông kết nối thành chữ Quốc. Bên cạnh các công trình kiến trúc quy mô, ngôi chùa này còn có 1 loạt các khu phụ trợ như nhà khách nằm phía Tây và Đông.

Tòa gác chuông tại chùa Keo cũng khá đặc biệt khi nằm ở cuối cùng trên con đường Thần Đạo. Tòa gác chuông này không chỉ là điểm nhấn kiến trúc mà còn mang giá trị tâm linh, đại diện cho sự giao hòa giữa đất và trời. Đây là nơi thể hiện sự tinh xảo của nghệ thuật chạm khắc gỗ truyền thống Việt Nam.

  • Tầng 1: Treo khánh đá lớn dùng trong các nghi lễ Phật giáo.
  • Tầng 2: Đặt một chuông đồng lớn, được sử dụng trong các buổi lễ quan trọng.
  • Tầng 3 và tầng thượng: Treo hai chuông đồng nhỏ hơn, tạo âm thanh vang vọng khi được gióng lên.

Giếng nước là công trình được xây dựng từ lâu đời với phần miệng được xếp ngay ngắn từ những chiếc cối đá. Hiện tại để bảo tồn di tích nguyên vẹn khi đến tham quan khách du lịch sẽ chỉ được đứng ngoài nhìn vì xung quanh đã rào chắn. Tòa gác chuông tại chùa Keo cũng khá đặc biệt khi nằm ở cuối cùng trên con đường Thần Đạo. Tòa tháp có 4 tầng: tầng 1 treo khánh đá, tầng 2 đặt chuông đồng lớn, tầng 3 và tầng thượng đặt 2 chuông đồng cỡ nhỏ.

Du khách có thể ghé thăm chùa Keo vào bất cứ thời điểm nào trong năm để cầu nguyện may mắn, an lành, tài lộc cho bản thân và gia đình. Đặc biệt là trong các dịp Tết Nguyên Đán, Lễ Vu Lan… chùa cũng tổ chức nhiều hoạt động mang đậm nét đẹp Phật giáo như: thả cá, thả chim phóng sinh, giảng đạo…

Hàng năm, chùa Keo tổ chức hai lễ hội chính:

  • Lễ hội mùa Xuân: Diễn ra vào ngày mùng 4 tháng Giêng âm lịch, thu hút đông đảo du khách và Phật tử đến hành hương.
  • Lễ hội mùa Thu: Là lễ hội chính, thường được tổ chức từ ngày 10 đến 20 tháng 9 âm lịch, nhằm tưởng nhớ Thiền sư Dương Không Lộ. Trong đó, các ngày 13, 14, 15 là trọng tâm với nhiều nghi lễ và hoạt động văn hóa truyền thống như rước kiệu Thánh, múa ếch vồ, thi bơi chải, thi bắt vịt, kéo co, hát giao duyên và các trò chơi dân gian khác.

Năm 2017, lễ hội chùa Keo được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia, khẳng định giá trị văn hóa và lịch sử quan trọng của lễ hội này.

Chùa Keo không thu vé tham quan, du khách có thể vào cửa miễn phí để chiêm bái và khám phá kiến trúc độc đáo của chùa.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Đền Trần - Thái Bình

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Trần Thái Bình là một quần thể di tích bao gồm đền thờ, tăng mộ của các vị vua quan nhà Trần. Vùng đất này được xem là nơi phát tích, dựng nghiệp của vương triều Trần. Tại đây có lưu giữ nhiều dấu ấn lịch sử gắn với các vị vua nhà Trần. Công trình này hiện đang được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt quan trọng.

Đền Trần Thái Bình còn có tên gọi khác là Thái Đường Lăng. Đây là một quần thể kiến trúc rộng lớn thu hút nhiều tín đồ khám phá lịch sử tìm về. Hiện nay, tại Đền Trần còn lưu giữ các di chỉ khảo cổ mộ các vua Trần cũng như khu lăng mộ, đền thờ hoàng thân.

Lịch sử

Lịch sử vương triều nhà Trần gắn liền với nhiều vị vua anh minh như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và những danh tướng, viên quan tài giỏi như Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư…

Cách đây hơn 700 năm, Thái Bình đã là vùng đất phát tích của triều đại nhà Trần. Trong triều đại ấy, các vua Trần đã cho xây dựng một Hành cung Long Hưng để tổ chức những đại lễ mừng chiến thắng và Tam đường là nơi lưu giữ hài cốt của các vị tổ tiên triều Trần.

Khi các vị vua hay hoàng hậu băng hà thường được an táng tại quê nhà và được xây lăng miếu phụng thờ, trong đó có Thái Đường Lăng (sau này được gọi là Đền Trần). Đây là nơi an nghỉ của các vị vua đầu triều đại như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Các hoàng hậu sau khi qua đời đều được đưa về các lăng mộ như Thọ lăng, Chiêu lăng, Dự lăng, Quy đức lăng. Ngày nay, lăng mộ ba vị vua đầu triều và dòng sông Thái Sư vẫn còn ở đó. Những di vật nằm sâu trong lòng đất đã được khai quật, giúp thế hệ ngày sau tìm lại được một thể kiến trúc lăng mộ, kiến trúc Hành cung Long Hưng vô cùng uy nghi, tráng lệ.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Lịch sử vương triều nhà Trần gắn liền với nhiều vị vua anh minh như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và những danh tướng, viên quan tài giỏi như Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư…

Cách đây hơn 700 năm, Thái Bình đã là vùng đất phát tích của triều đại nhà Trần. Trong triều đại ấy, các vua Trần đã cho xây dựng một Hành cung Long Hưng để tổ chức những đại lễ mừng chiến thắng và Tam đường là nơi lưu giữ hài cốt của các vị tổ tiên triều Trần.

Khi các vị vua hay hoàng hậu băng hà thường được an táng tại quê nhà và được xây lăng miếu phụng thờ, trong đó có Thái Đường Lăng (sau này được gọi là Đền Trần). Đây là nơi an nghỉ của các vị vua đầu triều đại như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Các hoàng hậu sau khi qua đời đều được đưa về các lăng mộ như Thọ lăng, Chiêu lăng, Dự lăng, Quy đức lăng. Ngày nay, lăng mộ ba vị vua đầu triều và dòng sông Thái Sư vẫn còn ở đó. Những di vật nằm sâu trong lòng đất đã được khai quật, giúp thế hệ ngày sau tìm lại được một thể kiến trúc lăng mộ, kiến trúc Hành cung Long Hưng vô cùng uy nghi, tráng lệ. Đền Trần được xây dựng trên một nền đất rộng lớn (khoảng 5175 m2). Đền Trần Thái Bình được xây dựng công phu và thể hiện được sự uy nghiêm, bề thế nằm giữa trung tâm xã Tiến Đức. Các hạng mục tại Đền Trần đã được hoàn thành là tòa hậu cung, tòa bái đường, tả vu, hữu vu, nghi môn, đài hóa vàng, ba ngôi mộ các vua Trần và một số công trình liên quan.

Hiện tại, bạn có thể chia kiến trúc chung của Đền Trần Thái Bình thành 3 cấu trúc chính:

  • Đền Vua thờ Thái Tổ Trần Thừa và các vua Trần.
  • Đền Thánh thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
  • Đền Mẫu thờ Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung, hoàng hậu và công chúa triều Trần.

Bố cục của các đền thường được phân chia theo trục chính, chia thành các không gian khư khu hành lễ, nội tự đền, vườn cây. Đền Trần kế thừa những nét đặc sắc nhất của kiến trúc đình làng , phát huy tính truyền thống dân tộc đậm đà. Ngoài ra, công trình được khởi dựng bởi sự tài hoa của những người thợ xây có tiếng cùng những loại đá được chạm trổ tinh vi, sống động. Tất cả tạo nên một quần thể kiến trúc tôn lên vẻ đẹp uy linh của ngôi đền.

Lễ hội Đền Trần Thái Bình được tổ chức từ ngày 13 đến 18 tháng Giêng Âm lịch hàng năm nhằm tôn vinh công lao dựng nước của nhà Trần trong lịch sử nước nhà. Lễ hội Đền Trần Thái Bình có tổ chức nhiều hoạt động rước lễ, vui chơi thú vị.

Phần lễ nổi tiếng với lễ rước nước, lễ giao chạ, lễ tế mở cửa đền, lễ bái yết, tế mộ. Lễ rước nước là hoạt động trước khi diễn ra lễ khai hội Đền Trần. Nước phải được lấy ở ngã ba tam tỉnh nơi có sự giao thoa giữa ba dòng sông là sông Luộc, sông Hồng, sông Thái Bình rồi đổ về của biển. Lễ rước này thể hiện đặc tính đời sống gắn bó với sông nước của người dân Thái Bình. Các vị tổ tiên nhà Trần thường ghép tên mình với một loại cá như Trần Kinh nghĩa là cá kình, Trần Hấp nghĩa là cá trăm, Trần Lý là cá chép, Trần Thừa là cá nheo và Trần Thị Dung là cá ngừ.

Ngoài phần lễ mang nhiều ý nghĩa lớn lao, phần hội tại Đền Trần Thái Bình sẽ rất náo nhiệt với những trò chơi sôi nổi như thi cỗ cá, chọi gà, thả diều, rước kiệu… và một loạt hoạt động khác như các điệu dân ca, dân vũ…

Ngày 27/01/2014, lễ hội Đền Trần Thái Bình được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia. Đây là một nét đẹp văn hóa xứng đáng được bảo tồn để thu hút các tín đồ du lịch cũng như thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn của ông cha ta từ ngàn xưa.

3 ngôi mộ ở Đền Trần Thái Bình sẽ khiến các tín đồ du lịch bất ngờ bởi mức độ rộng lớn. Trong khu lăng mộ là 3 chiếc gò sừng sững uy nghi giữa cánh đồng ruộng lúa mênh mông ở làng Tam Đường. Đây là một trong những gò mộ cổ lớn nhất ở Việt Nam từng được đông đảo tín đồ du lịch biết đến.

3 gò mộ ấy có quy mô tựa như 3 quả đồi nho nhỏ. Đây là một công trình nhân tạo choáng ngợp được tạo ra dưới triều đại nhà Trần.

Cả ba ngôi mộ này đã được tôn tạo vào năm 2004. Đường kính của mộ lên đến 65m và cao 1,2m so với sân tế. Ngôi mộ ở giữa đặc biệt hơn với đường kính 55m vào cao từ sân tế đến đỉnh mộ 7m, giữa một có đặt chữ Trần bằng Hán tự trong một khung sắt hình chữ nhật.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Làng Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Đền mẫu Tiên La - Thái Bình

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Tiên La tọa lạc tại thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Nằm bên dòng sông Tiên Hưng, ngôi đền nổi tiếng với giá trị lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng sâu sắc. Ngôi đền thờ Phật, Mẫu - tín ngưỡng lâu đời của dân tộc, đồng thời thờ danh nhân đất Việt với các nghi thức tâm linh cổ truyền.

Đền Tiên La được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia từ năm 1986. Với kiến trúc cổ kính và giá trị lịch sử sâu sắc, đền Tiên La là điểm đến độc đáo, xứng đáng để bạn dừng chân, chiêm ngưỡng và tưởng nhớ công lao của các anh hùng trong cuộc khởi nghĩa đầu tiên sau Công nguyên.

Lịch sử

Câu chuyện về đền Tiên La vẫn được lưu truyền cho đến ngày nay về một nữ tướng xuất sắc mang tên Vũ Thị Thục hay còn thường được gọi là Thục Nương. Bà được sinh ra trong một gia đình làm nghề bốc thuốc, chữa bệnh, lớn lên là một người con gái không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết, văn võ song toàn, giàu lòng nhân ái, yêu nước thương dân.

Đến năm 18 tuổi, Thục Nương đính hôn với con trai trưởng huyện – Phạm Danh Hương. Trước ngày cưới, Thục Nương đã bị quân lính của Tô Định – lúc bấy giờ là viên quan Thái thú của bọn phong kiến phương Bắc bắt về ép gả cho hắn. Tô Định được biết đến là kẻ vốn tham tiền bạc của cải, háo sắc và lại vô cùng tàn độc. Thục Nương nhất quyết không chịu khuất phục nên Tô Định đã tìm cách giết hại cha Thục Nương cùng Phạm Danh Hương và tìm cách lùng bắt bà về.

Biết được việc làm đó, Thục Nương được dân làng giúp đỡ chạy thoát, tìm đường ra bờ sông, chèo thuyền vài ngày ròng rã thì tới được vùng đất Đa Cương, tìm tới đền Tiên La nương nhờ cửa Phật. Tại đây, bà đã chiêu binh mãi mã để khởi nghĩa chống lại quân xâm lược phương Bắc với 4 chữ vàng “Bát Nạn tướng quân” (còn gọi là Bát Nàn hay Bát Não) để trả thù cho cha và người dân vô tội.

Bấy giờ Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa ở Mê Linh, hay tin sai Công Chúa Bảo Hoa về Tiên La mời Thục Nương tụ nghĩa. Bước đầu nàng còn lưỡng lự, sau nghĩ đến việc Giang sơn một mối. Thục Nương dẫn ba quân về Mê Linh tụ nghĩa. Trưng Nương duyệt quân và phong chức là “Đốc Lĩnh Tiền Môn” (Tướng tiên phong) hiệu là Đông Nhung Đại Tướng cùng quân dân cả nước tế cờ ra trận đi đánh các đồn giặc. Tô Định thất bại chạy chốn về nước. Nước nhà độc lập, Trưng Vương lên ngôi, bà Bát Nàn dưới trướng chiêu an trăm họ về xây dựng Thái ấp Tiên La.

Mùa xuân năm Nhâm Dần (42 SCN), Hán Quang Vũ sai Mã Viện làm chánh tướng và Lưu Long làm phó tướng cùng 20 vạn binh hùng sang tái chiếm. Trưng Vương hạ chiếu vời Bát Nàn tướng quân về giữ đất Lãng Bạc. Thế giặc mạnh, Hai Bà Trưng gửi mình theo dòng Hát Giang. Bà Bát Nàn kéo quân về Tiên La trấn thủ. Giặc tiến đánh Tiên La khép vòng vây, tình thế nguy cấp. Bà vẫn anh dũng chiến đấu quyết tử quyết sinh. Lui tới gò Kim Quy (Đền Tiên la ngày nay) vung gươm giết thêm nhiều giặc. Do lực lượng giặc quá mạnh, bà đã chọn cách tuẫn tiết tại gò Kim Quy để giữ trọn khí tiết vào ngày 18 tháng 3 năm Nhâm Dần. Cảm công đức và trí khí oai hùng của trang liệt nữ, đời sau vinh phong bà là: “Mẫu Thượng Ngàn Tái Thế”. Dân làng Tiên La lập đền thờ Mẫu được liệt vào hàng “Tứ Linh Từ” của Phủ Tiên Hưng xưa. Hàng năm cứ vào tháng 3 thập phương xa gần lại tìm về Tiên La giỗ Mẫu. Ngày vào hội và tan hội thường có “mưa rửa đền”.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Được xây dựng trên gò Kim Quy với diện tích lên đến hơn 6.000m2, đền Tiên La có cấu trúc “tiền nhất – hậu đinh” theo đúng kiểu cổ từ cột, kèo đến vòm mái uốn cong mang dáng hình con rồng bay lên. Đền có ba tòa điện chính đó là: Đại Bái (Tiền tế), Trung tế và Hậu điện. Các tòa điện bái đường hay thượng điện được xây dựng bằng gỗ tứ thiết, trạm trổ công phu các hình long – lân – quy – phượng, xen kẽ đó là các hình thông – trúc – cúc – mai.

Sau nhiều lần tu sửa, đền được mở rộng với quy mô lớn cùng với đó là nhiều công trình như cổng đền, toàn tiền tế, tòa trung tế hay thượng điện đều được trùng tu, tu sửa. Nơi đây còn lưu giữ được rất nhiều những đồ tế quý có giá trị thẩm mỹ và giá trị vô cùng lớn từ thời Lê, cùng các bia đá, chuông lớn có giá trị quý giá. Chính vì thế à ngày nay, đền Tiên La là một trong những địa điểm du lịch Thái Bình hấp dẫn.

Đến đền Tiên La, bạn đừng quên ghé thăm Gác chuông – một công trình nghệ thuật bằng gỗ với kiến trúc vô cùng đẹp mắt tại đây. Gác chuông cao hơn 11 mét với 3 tầng mái. Khung gác chuông được làm bằng gỗ, liên kết với nhau bằng mộng, tạo cho mái ngói hình dạng uốn cong dáng vẻ thanh thoát và nhẹ nhàng.

Gác chuông này được dựng trên một nền gạch vuông vắn. Tháp chuông có 4 tầng, tầng một có treo một khánh đá cao hơn 1,2 mét, tầng hai có một quả chuông đồng lớn cao 1,3 mét với đường kính 1 mét. Hai quả chuông nhỏ treo ở tầng ba và tầng thượng cao 0,62 mét với đường kính 0,69 mét.

Hàng năm, cứ đến ngày 10 đến 20 tháng 3 âm lịch hàng năm, nơi đây tổ chức lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn của Bát Nạn tướng quân thu hút được đông đảo du khách khắp các nơi tới dự. Ngày hội chính diễn ra vào ngày 17 trùng với ngày sinh của bà.

Tham gia lễ hội có rất nhiều những trò chơi dân gian như múa sư tử, múa rồng, chọi gà, đấu vật,... hay những trò chơi mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc như sáo trúc, đánh đáo, rước kiệu,...

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Khu di tích A Sào - Thái Bình

freSy with passion

Giới thiệu

Khu di tích A Sào là nơi thờ Quốc Công Tiết Chế - Hưng Đạo Đại Vương cùng hai tướng Yết Kiêu và Dã Tượng, nằm cạnh sông Hóa thuộc xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đến đây vào dịp lễ hội tháng 2 Âm Lịch hay vào tháng 8 “giỗ Cha”, du khách sẽ được chứng kiến không khí truyền thống dâng lễ Đức Thánh Trần tại Di tích lịch sử đền A Sào. Lễ hội này đã được cấp bằng công nhận “Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia” vào năm 2016 với những giá trị văn hóa tâm linh hấp dẫn.

Lịch sử

Khu di tích A Sào bao gồm: di tích Đền A Sào, di tích Bến Tượng; di tích Gò Đống Yên được Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch đã cấp bằng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 2011. Ngôi đền này nằm trên vùng đất gắn liền với sự tích Hưng Đạo Đại Vương đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Sau này, nhân dân đã lập đền thờ Trần Hưng Đạo gọi là Đệ nhị sinh từ hay A Sào linh miếu (đền A Sào) để tưởng nhớ công ơn Ngài.

Năm 1951, giặc Pháp đóng đồn ở đền A Sào và phá hủy nhiều đồ thờ cúng trong đền. Chúng dùng xe kéo voi đá từ bến sông về bốt để làm ụ súng và bắn gẫy vòi tượng voi đá. Qua nhiều thăng trầm, đền A Sào xưa đã bị phá hủy, chỉ còn là bãi đất hoang và tượng voi đá nằm trên nền đất cũ giữa cánh đồng A Sào. Qua nhiều cuộc hội thảo, nghiên cứu, năm 2005, nhân dân địa phương và các nhà hảo tâm đã quyên góp phục dựng đền mới khang trang như ngày nay và giữ nguyên tên đền A Sào.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Hiện nay, đền tọa lạc trên khu đất rộng 7.304m2, phía trước là hai hồ nước. Tương truyền khi xưa là nơi tắm cho voi chiến của quân binh.

Trong đó, trong tòa cung cấm có bệ thờ 3 bậc, bậc ở cao nhất trên cùng có đặt tượng Trần Hưng Đạo ở trong khám thờ. Bức tượng Ngài được làm bằng gỗ quý, có kích thước bằng người thật. Với hình dáng Ngài ngồi trên ngai với đầy đủ mũ áo cân đai, bối tử mặc áo màu hoàng bào. Trước đền là sân có diện tích 173m2 có đặt một lư hương to, cổ. Phía ngoài sân đặt tượng voi đá. Voi đá trước ở bến Tượng, đã được phục dựng vào năm 2005.

Hiện nay, tại Khu di tích A Sào còn lưu giữ con voi đá được nhân dân tạc phụng thờ năm 1928; một chiếc ấn gỗ khắc chữ “Trần triều Hưng Đạo Đại Vương chi ấn” và một số tấm văn khắc chữ Hán nôm.

Lễ hội đền A Sào đã được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2015. Hằng năm, lễ hội đều mở đầu bằng nghi thức rước bộ của 5 thôn trong xã An Thái; lễ tế Đức Thánh Trần; lễ mở cửa đền.

Bên cạnh đó, là các trò chơi cộng đồng, các hình thức diễn xướng dân gian độc đáo, đặc sắc và mang đặc trưng của quê lúa Thái Bình.

Đền luôn mở cửa đón khách chiêm bái vào mọi ngày thường nhật. Đặc biệt, vào đầu xuân năm mới hoặc ngày lễ hội đền A Sào vào 10-2 âm lịch (tương truyền là ngày sinh của Đức Thánh Trần) và ngày 20-8 âm lịch (ngày hóa của Ngài) thì đền lại tấp nập đông vui hơn cả. Lúc này, đền tổ chức lễ hội với nhiều nghi lễ văn hóa truyền thống và các trò chơi dân gian đặc sắc như: thi pháo đất, đấu vật, cờ tướng, bơi chải, màn múa kéo chữ…Tham gia lễ hội đền A Sào, du khách thập phương được sống với lòng tự hào dân tộc, tái hiện lại một thời kì hào hùng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Quần thể Khu di tích lịch sử, văn hóa quốc gia Đình, Đền, Bến Tượng A Sào được UBND tỉnh Thái Bình phê duyệt quy hoạch tổng thể trên diện tích 31,7ha. Hiện nay, đã đầu tư xây dựng các hạng mục công trình: Đền chính, sân đền, sân lễ hội, bãi đỗ xe, cụm bến tượng. Trong tương lai không xa, Khu di tích A Sào sẽ là một điểm đến hấp dẫn trên con đường du lịch tâm linh vùng châu thổ sông Hồng.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: cạnh sông Hóa, thôn A Sào, xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Đền Đồng Bằng - Thái Bình

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Đồng Bằng thuộc địa phận xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ được biết đến là ngôi đền linh thiêng đã được xây dựng từ thời vua Hùng Vương thứ 18. Ngôi đền này nhận được sắc phong “Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Đến nay, Đền Đồng Bằng đã trở thành điểm du lịch Thái Bình nổi tiếng bậc nhất tại Hòa Bình, thu hút rất đông du khách đến tham quan, trải nghiệm.

Đền Đồng Bằng khi được xây dựng là nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, người đã có công giúp Vua Hùng đánh đuổi giặc ngoại xâm, lập làng giúp dân. Từ cuối thế kỷ XIII đến nay, đền thờ này còn tưởng niệm Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và các tướng quân dưới thời nhà Trần có công bảo vệ đất nước, ba lần đánh quân Nguyên – Mông khỏi bờ cõi nước nhà.

Lịch sử

Vì lịch sử hơn 4000 năm nên Đền Đồng Bằng gắn với rất nhiều truyền thuyết ly kỳ. Trong đó, điển tích về Vua cha Bát Hải là câu chuyện được truyền miệng nhiều nhất. Tương truyền vào thời Hùng Vương thứ 18, khi ngoại bang đến xâm lăng nước ra, triều đình đã chiêu tập binh hùng tướng mạnh, chuẩn bị kỹ lưỡng nhưng vì thế giặc quá mạnh nên đã phải lập đàn Triệu Linh Sơn Tú Khí, cầu thần linh hỗ trợ chống giặc. Vùng đất này thời ấy thuộc trang Hoa Đào, nằm ở gần cửa sông Vĩnh. Đây là nơi Long Cung Hoàng Thái Tử (tức là Giao Long – con của Lạc Long Quân và người thiếp Ngọc Nữ) đã đầu thai vào một gia đình ngư dân sinh sống gần cửa sông, thuộc Trang Hoa Đào, đất Việt (xã An Lễ, Quỳnh Phụ bây giờ) giúp phò tá vua đánh giặc. Ngài đã cùng với 2 người em và 10 vị tướng hùng mạnh: quan lớn Thượng, quan Đệ tam, quan Đệ tứ, quan Điều thất (ông Hoàng Mười), quân sư quê ở Nuồi, 28 vị nội tướng và binh sĩ, cùng nhau hợp sức đánh tan giặc trên 8 cửa biển, mang về thái bình cho đất nước. Sau chiến thắng ấy ngài được phong là Vĩnh Công Đại vương. Thay vì ở lại triều đình, ngài xin về quê phụng dưỡng cha mẹ và khai khẩn, chiêu dân lập ấp vùng duyên hải, giúp vua giữ yên bờ cõi. Khi Vĩnh Công Đại Vương quy tiên vào ngày 25/8 âm lịch, người dân nơi đây nhớ ơn Ngài nên đã tôn ông là Vua cha – Bát Hải Đại Vương. Vua Hùng cũng đã cho tu sửa lại dinh thất, xây thành miếu điện thờ để người dân hương khói tưởng nhớ. Rất nhiều câu chuyện tương truyền rằng Vĩnh Công Đại Vương rất linh thiêng, vào thế kỉ XIII khi giặc Nguyên - Mông đến xâm lược nước ta, Hưng Đạo Đạo Vương đã đưa các tướng đến đền để cầu nguyện âm phù. Sau ba lần đánh đuổi được quân Nguyên - Mông, binh tướng nhà Trần đã góp sức để tôn tạo đền thờ thêm khang trang. Từ đó đến nay, dù trải qua hàng ngàn năm với rất nhiều biến động lịch sử, người dân Thái Bình vẫn hương khói đầy đủ, thờ cúng Vĩnh Công Đại Vương và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng những anh hùng nhà Trần có công với đất nước.
freSy with passion

Điểm đặc biệt

Có dịp đến tham quan Đền Đồng Bằng, chắc chắn bạn sẽ bất ngờ với lối kiến trúc vô cùng ấn tượng tại đây. Đền được ví như bảo tàng mỹ thuật điêu khắc bằng chất liệu gỗ, vẻ đẹp đồ sộ và tinh xảo với tầng tầng, lớp lớp các cung thờ nối liền nhau. Đền Đồng Bằng gồm có 13 tòa, 66 gian, thiết kế dạng khép kín. Không gian thờ linh thiêng, các chi tiết đều được chạm trổ, điêu khắc cực kỳ tinh xảo, hàng trăm câu đối sơn son thếp vàng rực rỡ, quý linh, tứ quý trưng bày huyền ảo, sống động.

Khu vực cổng đền thiết kế theo kiểu vọng lầu tam hoành tráng, cổng tam quan cực kỳ nguy nga. Bước qua cổng, bạn sẽ vào tới sân chính nội tự, là nơi tổ chức các hoạt động đại lễ, lễ tế quan trọng. Kiến trúc đền theo dạng tiền công hậu đinh, 5 cung thờ chính với các kiểu kiến trúc khác nhau:

  • Cung đệ tứ chạm khắc tinh xảo, trang trí đầy ắp nhưng bài trí thiết tự.
  • Cung đệ tam thì thiết kế thanh hư thoát tục hơn, đơn giản và nhẹ nhàng.
  • Cung đệ nhị xây dựng tươi mới, nhiều màu sắc hút mắt.
  • Cung đệ nhất với ban thờ đức vua Bát Hải nên rất trang nghiêm, yên tĩnh.
  • Cuối cùng là cấm cung đền Đồng Bằng, là nơi linh thiêng nhất, trước kia chỉ vua chúa mới có thể vào đây thờ cúng.

Các cung tại Đền Đồng Bằng hội tụ đầy đủ ngũ hành theo quan niệm truyền thống của người Việt. Giữa các cung là một miệng giếng cổ, theo những câu chuyện xa xưa thì đây chính là nơi mà Vĩnh Công từng ẩn thân. Vì vậy mà người dân tin rằng nước ở giếng này có thể tiêu trừ điều xui rủi, mang đến may mắn.

Vẻ đẹp của ngôi đền hàng ngàn năm tuổi này mang nét xưa dáng cũ, thể hiện tinh hoa kiến trúc và văn hóa tâm linh của dân tộc. Trải qua thăng trầm lịch sử, các cuộc chiến tranh liên miên, đền đã nhiều lần bị hư hại. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, đền Đồng Bằng đã được tu sửa, mở rộng khuôn viên để phục vụ khách hàng hương, chiêm bái từ khắp nơi đổ về. Khu di tích lịch sử đền Đồng Bằng hiện nay có diện tích khoảng 20.520m2, bao gồm cả các đền Đức Vua, đền Sinh, đền quan Đệ Nhị, đền quan Điều, đền quan Đệ Tam, đền quan Đệ Bát.

Nếu bạn là người yêu thích khám phá các lễ hội truyền thống thì đừng bỏ qua lễ hội nổi tiếng của Đền Đồng Bằng, tổ chức vào ngày 20/8 âm lịch hằng năm. Lễ hội này tổ chức với hai phần chính là phần lễ và phần hội. Phần lễ sẽ thực hiện rước thần từ các đền Mẫu Sinh, các quan Đệ Nhất, Nhị, Tam, Quan Điều Thất, Quân Đệ Bát về đền của vua cha Bát Hải. Sau đó, người dân sẽ tổ chức lễ dâng hương, khai chiêng, múa trống mở hội, rước bài vị…

Các nghi lễ được thực hiện rất bài bản, quy mô, thu hút hàng ngàn khách hành hương đổ về. Sau phần lễ sẽ là phần hội sẽ rất náo nhiệt, bạn có thể trải nghiệm các trò chơi dân gian, tham gia chơi kéo co, bơi chải, cờ tướng, đấu vật, chọi gà…

Lễ hội Đền Đồng Bằng được bảo tồn để lưu giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống, giá trị nhân văn cao đẹp. Đây đồng thời cũng là dịp thể hiện lòng biết ơn, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta cùng với sự ngưỡng vọng, tôn kính với Đức Vua cha Bát Hải Động Đình. Đến nay, người Thái Bình vẫn truyền nhau câu vè:

Dù ai buôn xa bán xa
22 tháng 8 giỗ Cha thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
22 tháng 8 nhớ về Đào Thôn

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Làng Đồng Bằng, Xã An Lễ, Huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Nguồn: freSy with passion

Bài viết khác

The ÂN - Working with love
Tài trợ & Đối tác
KHỞI NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: HÀNH TRÌNH TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG
The ÂN - Working with love
The ÂN - Working with love
Tình yêu thương

đến từ khách hàng của freSy!

Nhận tin mới nhất