Việt Nam

[Bản Đồ Tâm Linh] Sắc màu tâm linh trên vùng đất hợp nhất Hải Dương – Hải Phòng

Blog


Từ ngày 01/07/2025, hai vùng đất giàu truyền thống lịch sử – văn hóa là Hải Dương và Hải Phòng chính thức hợp nhất, hình thành Tỉnh Hải Phòng mới với trung tâm chính trị – hành chính đặt tại thành phố Hải Phòng. Sự kiện này mở ra một giai đoạn phát triển mới, đồng thời tạo nên một không gian văn hóa – tâm linh rộng lớn, hội tụ những di sản quý giá của vùng đồng bằng duyên hải Bắc Bộ.

freSy with passion

Hải Dương – miền “địa linh nhân kiệt” với những di tích Phật giáo nổi tiếng như Chùa Côn Sơn, Chùa Giám, Chùa Giám, gắn liền với lịch sử Phật giáo và danh nhân đất Việt; và Hải Phòng – thành phố cảng năng động nhưng vẫn lưu giữ nhiều đền chùa linh thiêng như Chùa Dư Hàng, Chùa Hang, Đền Nghè, nơi tôn vinh những vị anh hùng dân tộc và gìn giữ tín ngưỡng dân gian.

Bài viết này sẽ đưa bạn đến hành trình khám phá những ngôi đền, chùa tiêu biểu của Tỉnh Hải Phòng mới – nơi quá khứ và hiện tại hòa quyện, và nơi tín ngưỡng, lịch sử, kiến trúc cùng kể câu chuyện về một vùng đất giàu bản sắc văn hóa.

Chùa Dư Hàng - Hải Phòng

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Dư Hàng hay còn được biết đến với tên gọi khác là chùa Dư Hàng Kênh, chùa có tên chữ là Phúc Lâm Tự. Dư Hàng là ngôi chùa cổ và có quy mô lớn tại Hải Phòng.

Lịch sử

Lịch sử chùa Dư Hàng Hải Phòng được sử sách ghi chép là có từ thời Tiền Lê (980 – 1009). Vào cuối thời vua Lê Đại Hành đã có vị sư tổ đến đây thuyết pháp và khai sáng giáo lý nhà Phật. Vào năm 1672 đời vua Lê Gia Tông, sư cụ Nguyễn Đình Sách đã xuất tiền để tậu ruộng đất, cải tạo chùa với diện tích lớn hơn. Đồng thời cho xây dựng nhà tăng, nhà thờ tổ, gác chuông… Đến năm 1899 đời vua Thành Thái, chùa tiếp tục được trùng tu.

Vào năm 1917, chùa Dư Hàng Hải Phòng được xây dựng thêm vườn tượng, thư các, vườn tháp, đồng thời sửa sang một số hạng mục. Trải qua nhiều biến cố, thăng trầm lịch sử, ngôi cổ tự này đã được các thế hệ hòa thượng, tăng ni cùng các tín đồ Phật tử ở khắp mọi nơi chung lòng, chung sức sửa sang để ngày một đẹp đẽ, khang trang.

Dư Hàng được xem là ngôi cổ tự gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng. Vào năm 1926, ngay khi biết tin nhà yêu nước Phan Chu Trinh mất tại Sài Gòn, các Phật tử, tăng ni cùng các thầy trò, học sinh và thợ thuyền lao động đã tập trung tại chùa Dư Hàng để tổ chức lễ truy điệu. Đây được xem là sự kiện quan trọng, gắn liền với phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh.

Sau cách mạng Tháng Tám 1945, Hội Tăng già cứu quốc Hải Phòng đã làm lễ ra mắt tại chùa, đồng thời các đoàn thể quần chúng cách mạng đã họp bàn việc đón tiếp Bác Hồ trên đường từ Pháp trở về Việt Nam, ghé thăm chiến sĩ và đồng bào Hải Phòng. Trong suốt những năm kháng chiến, chùa Dư Hàng đã mở rộng cửa thiền, nuôi quân. Đặc biệt, không ít vị tu hành ở chùa đã tự nguyện tòng quân cứu nước. Vào năm 1986, chùa Dư Hàng Hải Phòng vinh dự được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Mặc dù có niên đại hàng ngàn năm nhưng chùa Dư Hàng vẫn giữ được gần như nguyên vẹn dáng dấp cùng đường nét cổ xưa. Ngôi cổ tự này thiết kế theo kiến trúc cổ, kiểu chữ Đinh. Tòa Phật điện 7 gian được bố trí ở trung tâm, lợp mái ngôi, dựng theo kiểu vì kéo giá chiêng.

Bên trong được trang trí bởi nhiều câu đối, bức hoành phi sơn son thếp vàng. Các cửa võng được chạm khắc tinh tế, tỉ mỉ với họa tiết rồng mây, ngũ phúc, mai điểu… Phía trước tòa Phật điện là Tam quan, nơi có gác chuông 5 gian với 3 tầng mái đao uốn lượn, cong vút vô cùng bề thế. Ngoài ra chùa còn có đủ nhà phương trượng, nhà thờ Mẫu, nhà Tổ, nhà thọ trai, tăng xá…

Bên cạnh những đặc trưng về kiến trúc, ngôi cổ tự này còn lưu giữ được nhiều cổ vật từ thời kì phong kiến, có giá trị cao về mặt vật chất lẫn tinh thần. Có thể kể đến như: đỉnh đồng, chuông, khánh, đồ trang trí mỹ nghệ bằng đá xanh, bộ Tam thế, tòa Cửu Long – Thích Ca sơ sinh…

Và đặc biệt, nổi bật nhất phải kể đến bộ sách kinh Trường A Hàm. Đây là tài liệu cổ về giáo lý đạo Phật, được biết đến như là phần đầu tiên của bộ sưu tập các Kinh điển Phật giáo sơ khai. Bộ tài liệu cổ này có giá trị lịch sử và tâm linh đối với Phật giáo Việt Nam.

Một trong những điểm nhấn, thu hút du khách khi đến chùa Dư Hàng Hải Phòng là ngôi cổ tự này sở hữu nhiều công trình có thiết kế độc đáo. Trong đó nổi bật nhất phải kể đến:

  • Khu vườn tháp: Khu vườn tháp gồm 11 tòa tháp nhỏ được làm bằng đá. Đây là nơi đặt di thể các vị sư tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và các vị trụ trì, sư tổ đã viên tịch tại chùa.
  • Gác chuông: Gác chuông của chùa được xây theo kiến trúc 3 tầng kết hợp với các chi tiết trang trí rồng phượng vô cùng tinh xảo. Trên gác chuông được khắc dòng chữ “Phúc Lâm Tự” vô cùng nổi bật.
  • Nhà Tổ và khu vực Thượng viện: Nhà Tổ chùa Dư Hàng được thiết kế 5 gian với diện tích rộng rãi, bao quanh là nhà Hậu, khu Tiền đường và khu Thượng viện. Thượng viện sử dụng chất liệu gỗ chủ đạo, trên các bức tường còn có nhiều vết tích chạm trổ của người xưa mang đến cảm giác vừa uy nghiêm vừa ấm cúng.

Khu vườn tượng của chùa Dư Hàng có nhiều loại cây trái và hoa cảnh quanh năm rực rỡ. Xung quanh hồ nước có 12 bức tượng được chế tác tỉ mỉ, tinh xảo. Trong đó nổi bật nhất phải kể đến pho tượng đức Phật Tổ Như Lai tọa trên đài sen, dưới bóng cây bồ đề với dáng vẻ trầm mặc, uy nghi.

Ở phía bên kia hồ, đối diện với tượng Phật Tổ là pho tượng đức Phật Di Lặc màu đen. Xung quanh hồ và sân vườn là các pho tượng của 10 vị Tôn giả được chế tạc bằng đá trắng với những tư thế, diện mạo cùng dáng vẻ khác nhau.

Tháng 4 đến tháng 10 là thời điểm lý tưởng để bạn đến chùa Dư Hàng vãn cảnh, chiêm bái. Lúc này thời tiết tại thành phố cảng nắng ráo, ít mưa, ngoài chùa Dư Hàng Kênh, bạn cũng có thể kết hợp tham quan thêm nhiều danh lam thắng cảnh đẹp khác tại Hải Phòng.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: 121 Dư Hàng, Quận Lê Chân, Tp. Hải Phòng, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Đỏ - Hải Phòng

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Đỏ (Linh Độ tự) nằm trong một con ngõ nhỏ tại phố Lê Lai. Đây là một trong những ngôi chùa linh thiêng bậc nhất xứ cảng, đồng thời là nơi có pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng gỗ lớn nhất nước ta.

Lý giải về tên gọi của chùa, theo tương truyền vào thời Trần, khi Hưng Đạo Vương đưa quân kháng chiến chống quân Nguyên Mông đi qua vùng đất này thấy bếp trong chùa tự dưng rực đỏ. Thấy điềm lành ở ngôi chùa thiêng, người dân đã đặt tên cho ngôi chùa này là chùa Đỏ.

Với nhiều chiến công hiển hách, Hưng Đạo Vương đã trở thành vị thánh trong lòng người dân Hải Phòng nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Do đó, để tưởng nhớ đến Ngài, nhân dân đã xây thêm hai ngôi miếu ở hai bên chùa thờ Ngài và các bộ tướng thân tín của Ngài.

Lịch sử

Theo sử sách ghi chép lại, thuở xa xưa ở một bãi bồi nhỏ thường có người chết trôi dạt vào. Do đó dân làng đã dựng lên ngôi chùa nhỏ ở khu gò cao để thờ Phật, cầu Như Lai phù hộ cho linh hồn những người xấu số.

Vào năm Mậu Tuất 1288, Hưng Đạo Vương khi đến vùng An Dương để nghiên cứu địa hình để tiêu diệt quân Nguyên Mông thấy bếp trong chùa rực đỏ. Thấy điềm lành, ông đã cho người lo việc ăn uống trong chùa, làm bếp chùa luôn đỏ lửa. Do đó người dân đã đặt tên cho ngôi chùa này là chùa Đỏ.

Sau khi Hưng Đạo Vương qua đời, người dân đã cho xây dựng hai ngôi miếu bên chùa để thờ Ngài và các bộ tướng thân tín. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ chùa đã bị hư hại nhiều. Sau này, từ nền cũ đại đức Thích Trường xuân cùng các tín đồ, Phật tử đã tiến hành cho xây dựng lại chùa Đỏ khang trang, nguy nga hơn.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Linh Độ tự là một trong những ngôi chùa cổ ở nước ta sở hữu kiến trúc độc đáo, chưa từng có trong lịch sử kiến trúc chùa chiền ở Việt Nam. Theo đó, chùa được xây dựng theo lối kiến trúc cổ diêm chồng đấu với 3 tầng 20 mái gồm 3 cung chính là Tiền Đường, Trung Đường và Hậu Cung.

Điều đặc biệt là các khu Tiền Đường, Trung Đường và Hậu Cung được xử lý hai mái giao nhau tạo sự liên kết giữa các khu từ đó mang đến kiến trúc hoành tráng, nguy nga. Chùa có chiều cao khoảng 26m. rên mái Tiền Đường được thiết kế một tháp 7 tầng cao 5m, bên trên tháp có sen, trong tòa sen có cột chờ cao 5m.

Trung Đường có hàng “hoa chanh” được thiết kế cách điệu là các lá đề kép bằng men xanh cổ chạy dọc nóc chùa. Mỗi lá đề kép đều có biểu tượng Linh Độ tự. Hậu Cung chùa Đỏ có hai tầng mái đao, ở giữa trên nóc mái đặt lá bồ đề như ngọn lửa bập bùng. Xung quanh tầng mái đều lắp lá đề lép, ở giữa trang trí nhiều bóng đèn.

Bên ngoài chính diện tầng một bố trí bốn cột đá được chạm khắc hình rồng, phượng, đối xứng hai bên. Ở giữa các cột là lan can bằng đá chạm khắc Tùng – Trúc – Cúc – Mai. Bệ dưới ốp đá chạm trổ mây và hoa sen, nền chùa Đỏ được tạo dựng trên tòa sen khổng lồ mang ý nghĩa Liên Hoa Tạng Giới.

Không chỉ sở hữu kiến trúc có 1-0-2, chùa Đỏ còn sở hữu bức tượng Phật Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đây là bức tượng gỗ lớn nhất Việt Nam, đồng thời được xem là một tuyệt tác về nghệ thuật. Tượng cao 5m5, ngự trên tòa sen có chiều cao 2m90, bao gồm 500 cánh sen sơn son thếp vàng và được chạm khắc hoa văn thời Trần.

Phía sau bức tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Vạn Phật thành có chiều cao 11m, bao gồm 1111 tượng Phật nhỏ được sơn son thép vàng, ngự trong các lá bồ đề được ghép với nhau thành viền. Vạn Phật mang ý nghĩa tượng trưng cho Pháp giới vô biên.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: phố Lê Lai, phường Ngô Quyền, TP. Hải Phòng, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Phổ Chiếu - Hải Phòng

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Phổ Chiếu còn có nhiều tên gọi khác như chùa Chiếu, chùa Phả Chiếu. Công trình này tọa lạc trên khu đất rộng thuộc phường Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh của người dân thành phố hoa phượng đỏ, chùa Phổ Chiếu còn là địa điểm du lịch văn hoá nổi tiếng khắp gần xa.

Trong “vườn hoa Phật giáo” tại Hải Phòng, ngôi chùa không nổi tiếng, bề thế và có lịch sử lâu đời như chùa Tháp Tường Long, chùa Đỏ, chùa Dư Hàng, chùa Tràng Kênh hay chùa Cao Linh. Thế nhưng, nơi đây vẫn có sức hút riêng và được nhiều du khách lui tới vãn cảnh, dâng hương.

Lịch sử

Câu chuyện về lịch sử chùa Phổ Chiếu được nhiều du khách tìm hiểu. Công trình này được xây dựng từ năm 1953 bởi sư cụ Ngô Chân Tử. Ông là người dân làng Cao Mại, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Thuở sơ khai, chùa có tên là Tam Giáo Đường vì nơi đây thờ Tam giáo đồng nguyên gồm Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo.

Năm 1954, hoà thượng Thích Thanh Quang thuộc phái Lâm Tế đến từ chùa Vọng Cung (tỉnh Nam Định) đến làm trụ trì. Sau đó, ông đã đổi tên chùa thành Phổ Chiếu và chỉ thờ Phật. Đến năm 1985, trụ trì chùa là hòa thượng Thích Thanh Giác cùng nhân thân và các phật tử đã trùng tu, xây dựng lại ngôi chùa trở nên khang trang, bề thế như bây giờ.

Chùa Phổ Chiếu gắn liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh giành lại độc lập, tự do, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với các cán bộ tham gia kháng chiến chống Pháp, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng hải quân, không quân của đế quốc Mỹ đối với Hải Phòng nói riêng và cả nước nói chung, ngôi chùa có ý nghĩa vô cùng đặc biệt.

Trong giai đoạn chiến tranh, nhà chùa đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan công an thành phố làm việc an toàn và bí mật. Không chỉ vậy, 300 ngày sau Hiệp định Giơnevơ (1954) được ký kết, nơi đây là trụ sở của Liên Hiệp công đoàn chỉ đạo nhân dân đấu tranh, không cho giới chủ đem máy móc vào Nam.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Từ lâu, khuôn viên rộng rãi, thoáng mát của chùa đã trở thành nơi sinh hoạt văn hoá tâm linh, tín ngưỡng của người dân và giới tu hành theo chính sách tự do tín ngưỡng của Hiến pháp. Bên cạnh đó, chùa Phổ Chiếu còn lưu giữ nhiều di vật là đồ tế tự câu đối, tiêu bản điêu khắc gỗ, bia ký tượng Phật, đại tự mang dấu ấn nghệ thuật thế kỷ XX. Các tác phẩm này gây ấn tượng bởi kỹ thuật sơn thiếp và tỷ lệ tạo hình có sự đúc kết, kế thừa kinh nghiệm từ những giai đoạn trước.

Chùa Chiếu được xây dựng trên khu đất rộng quay mặt về hướng Đông. Công trình này được thiết kế theo lối kiến trúc hình chữ “công”, bao gồm 3 gian ống muống, 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Hiện nay, bên cạnh kiến trúc hình chữ “công” của chùa chính, nơi đây còn có thêm hữu vu và tả vu.

Nhà Phật Đường

Nhà Phật Đường sở hữu lối kiến trúc hình chữ công, bao gồm 3 gian ống muống, 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Mặt chính nhà Phật Đường hướng về phía Đông. Những trang trí đắp vẽ được các nghệ nhân thể hiện một cách tinh tế tại bờ nóc mái, nơi chính thờ Phật, hai phía đầu hồi toà Tiền Đường. Giữa bờ nóc mái có một nậm rượu to ở chính giữa. Phía trước 2 bên đầu hồi đắp đấu vuông. Trong đó, mỗi đấu vuông có 5 bầu rượu nhỏ biểu thị cho ống nước Cam Lỗ của Đức Phật.

Nhà Tổ Đường

Với mái lợp ngói ta truyền thống, bộ khung gỗ, nhà Tổ Đường được cấu trúc theo lối “trùng thiềm điệp ốc”, bao gồm 2 nếp nhà khung gỗ kết hợp với vật liệu xây dựng truyền thống như đá, gỗ, gốm màu… Đặc điểm chung của công trình này là có chiều dài, chiều rộng phù hợp để đặt bàn thờ các vị sư tổ từng trụ trì, bày đồ thờ tự, nơi tiếp khách…

Nhà Tổ Đường có hậu cung là nơi đặt bài vị, hương án của các vị tu hành đã góp sức xây dựng chùa. Cách sân chùa 3 bậc là thềm hiên rộng rãi với bộ cửa gỗ được thiết kế theo kiểu “cửa thùng – khung khách” đặt trên bệ ngưỡng gỗ, cao ráo, sau đó mới đến nội thất nhà Tổ Đường.

Kiến trúc ấn tượng của chùa Phổ Chiếu Lê Chân Hải Phòng

Tòa bảo tháp cửu phẩm liên hoa 9 tầng là điểm nhấn nổi bật của chùa Phổ Chiếu. Tính đến thời điểm hiện tại, đây là tòa bảo tháp cao nhất tại thành phố hoa phượng đỏ. Trên đỉnh tháp có một bầu rượu giống như bầu nước Cam Lộ của Phật Bà Quan Âm đặt trên đài sen 9 tầng.

Nhiều du khách khi đến chùa Phả Chiếu cảm thấy khá thích thú bởi trong khuôn viên có một ngôi chùa nhỏ nằm giữa hồ nước. Ngôi chùa nhỏ này mô phỏng lối kiến trúc của chùa Một Cột ở Hà Nội. 4 góc của hồ có 4 con rồng như đang trườn từ dưới nước lên hướng về ngôi chùa nhỏ. Do đó, khung cảnh nơi đây vừa trang nghiêm, vừa hiện đại.

Vườn tháp đặt xá lị của các nhà sư tiền bối nằm ở phía bên phải của chùa Phổ Chiếu. Đây là nơi đặt xá lị của các nhà sư tiền bối. Nếu có dịp đến thăm ngôi chùa này, bạn đừng quên quá bộ ra vườn tháp để dâng hương tưởng nhớ các vị sư tiền bối đã trụ trì tại đây.

Các di vật tiêu biểu tại chùa Phổ Chiếu

Nhìn chung, cách bài trí đồ thờ tự, Phật tượng tại chùa Chiếu không khác nhiều so với các ngôi chùa khác tại Hải Phòng. Tuy nhiên, những di vật ở đây được bài trí gọn gàng, ngăn nắp, đảm bảo hình khối mỹ thuật, sơn thiếp rõ ràng, cẩn thận.

Một số di vật tiêu biểu tại chùa Phổ Chiếu bao gồm:

  • Quả chuông đồng: nặng 750kg, cao 175cm, rộng 95cm
  • Bia ký chùa Phổ Chiếu
  • 4 cây tháp gồm Năng Nhân Bảo Tháp, Từ Thị Bảo Tháp, Trung Thiên Bảo Tháp và Phổ Quang Bảo Tháp
  • Tượng Quan Âm
  • Tượng Đức Phật

Bên cạnh ngày mùng 1 và ngày rằm hàng tháng, chùa Phả Chiếu còn tổ chức một số lễ dịp đầu năm như lễ Phật Đản (15/4), lễ Thượng Nguyên (14/1), lễ Vu Lan (15/7). Ngày trọng hàng năm của chùa gồm 2 ngày 5/1 và 16/10. Bên cạnh đó các khóa lễ trang nghiêm cũng được tổ chức một cách nghiêm trang, thu hút nhiều tín đồ phật tử, giới tăng ni và du khách thập phương đến tham gia.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Xóm Miếu 2, Phường Dư Hàng Kênh, Quận Lê Chân, Tp. Hải Phòng, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Tháp Tường Long - Hải Phòng

freSy with passion

Giới thiệu

Đồ Sơn là địa điểm du lịch trọng yếu của Hải Phòng với nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp. Nơi đây còn nổi tiếng với tháp Tường Long - di tích lịch sử văn hóa với tuổi đời lên đến 10 thế kỷ.

Khi du lịch Hải Phòng, du khách hãy dừng chân tại đỉnh Long Sơn, phường Ngọc Xuyên, quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng để ghé thăm tháp Tường Long. Nơi đây không chỉ được biết đến với nét kiến trúc đặc sắc mà còn là một ngôi chùa linh thiêng thu hút nhiều du khách đến tham quan, hành hương.

Lịch sử

Tháp Tường Long hay còn gọi là chùa Tháp hoặc tháp Đồ Sơn được xây dựng vào thời vua Lý Thánh Tông - giai đoạn Phật giáo phát triển mạnh mẽ và được tôn làm quốc đạo. Di tích lịch sử Hải Phòng này được xây trên bãi đất rộng khoảng 2.000m2 với 9 tầng, chiều cao 100 thước.

So với các công trình kiến trúc thời bấy giờ, công trình Phật giáo này được xem như ngọn tháp cao nhất với vị trí trên đỉnh núi cao 128m so với mực nước biển. Theo các bản thuyết minh về chùa Tháp, nơi đây được xây dựng ngoài mục đích phục vụ cho tín ngưỡng, tôn giáo còn là đài quan sát nhằm theo dõi các biến động phía Đông Bắc.

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, tháp Tường Long đã trở thành một di tích khảo cổ học. Người ta đã tìm thấy phế tích tháp với nền móng hình vuông, lòng tháp rỗng, trên các viên gạch vẫn còn hiện những hàng chữ nổi bằng tiếng Hán: “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”.

Năm 2007, tháp Tường Long Hải Phòng đã được phỏng dựng lại và chính thức được khánh thành vào năm 2017. Tháp mới cao 9 tầng, vỏ tháp được xây dựng bằng gạch gốm, cách trang trí tháp giữ được những nét đặc trưng của thời Lý với các hoa văn, họa tiết mềm mại, tinh xảo. Tháp Tường Long ngày nay đã trở thành điểm đến tâm linh của đông đảo du khách trên cả nước, đặc biệt vào dịp đầu năm.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Trên đường lên chùa Tháp Đồ Sơn, từ xa, bạn đã có thể chiêm ngưỡng sự đồ sộ của công trình nghệ thuật độc đáo này nhờ vị trí tọa lạc trên một khoảng đất lớn và tách biệt. Giữa một khoảng trời rộng lớn, tòa tháp đứng hiên ngang, sừng sững như một vị thần bề thế.

Nếu bạn là du khách đam mê tìm hiểu về nét kiến trúc của thời nhà Lý cùng nghệ thuật Phật giáo đương thời, tháp Tường Long là điểm dừng chân lý tưởng. Nhìn từ xa, ngọn tháp như một cây sáo với nhiều cửa sổ phân tầng.

Bên ngoài tháp được lát bằng gạch và đá hoa cương mang sắc đỏ cổ kính. Phần mái tháp trang trí những hoa văn như đóa sen, đóa cúc… được chạm khắc tỉ mỉ, tinh xảo. Những hình tượng này đều rất phổ biến vào triều đại nhà Lý và xuất hiện ở tất cả các công trình kiến trúc thời bấy giờ.

Bốn góc của chân tháp có độ nghiêng khoảng 190 độ. Xung quanh chân tháp gồm ba dãy nhà cấp bốn là nơi thờ thần, lễ Phật, tiếp khách, sinh hoạt của các sư thầy… Đa phần du khách trước khi di chuyển đến chân tháp đều dừng chân vái lạy các vị thần trong từng ngôi chùa để thể hiện sự thành kính.

Tháp Tường Long không những được biết đến là một đại danh lam kiêm hành cung của các nhà vua thời Lý mà công trình này còn là một trong các địa điểm du lịch Hải Phòng xuất phát từ hệ tư tưởng có ảnh hưởng trực tiếp của đạo Phật.

Ngọn tháp nhiều tầng như một chiếc cột linh quang rực rỡ chiếu rọi đạo pháp cho mọi người lúc đương thời, phản ánh sự hội nhập và truyền bá rằng tôn giáo này đã trải qua một quá trình dài và phát triển đến đỉnh cao.

Về giá trị tâm linh, tháp Tường Long gắn với câu chuyện rồng vàng hạ thế trong mộng của vua Lý Thánh Tông. Theo ghi chép từ sách “Đại Việt sử lược”, vào năm Mậu Tuất 1058, vua Lý Thánh Tông sau khi ngự giá qua biển Ba Lộ đã dừng chân tại nơi đây xây tháp. Ngài đã nằm mộng thấy rồng vàng nên đã hạ lệnh đặt tên cho tháp là Tường Long (thấy rồng vàng hiện lên) để ghi nhớ điềm lành.

Khu trưng bày hố khảo cổ tại chân tháp Tường Long được hoàn thành vào năm 2018 cũng là một điểm nhấn thu hút du khách. Trên nền móng hố khảo cổ được chia thành hai khu, một khu trưng bày hiện vật được phục dựng để xây dựng tháp mới, khu còn lại để bài trí những hiện vật từ năm 1058 như: ngói lòng máng, ngói mũi hài, mảnh đất nung khắc hình rồng, tượng uyên ương, mảnh đầu rồng…

Những hiện vật này là tài liệu đắt giá để du khách tìm hiểu giá trị lịch sử, văn hóa của di tích này. Khi nhìn thấy những hiện vật này, nhiều du khách đã bày tỏ sự tự hào về truyền thống của cha ông ta lưu truyền lại.

Lễ hội xuân cầu may năm mới tại tháp Tường Long luôn nằm trong danh sách những lễ hội Hải Phòng thu hút nhiều du khách từ khắp mọi miền đất nước đổ về. Vào những ngày đầu năm, tháp khoác lên mình tấm áo rực rỡ, tràn đầy sức sống của cảnh vật mùa xuân.

Lễ hội xuân cầu may được tổ chức vô cùng náo nhiệt. Du khách ngoài thắp hương khấn phật còn có thể xin những lá bùa may mắn, gửi gắm tâm tư, ước vọng của mình lên cây “điều ước” ngay dưới chân tháp để cầu chúc một năm mới bình an.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: đỉnh Long Sơn, Phường Ngọc Xuyên, Quận Đồ Sơn, Tp. Hải Phòng, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Cao Linh - Hải Phòng

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Cao Linh tọa lạc tại thôn Bắc Hà, xã Bắc Sơn, huyện An Dương, TP. Hải Phòng, cách khu vực trung tâm thành phố khoảng 12km. Với tổng diện tích lên đến 49.000m², chùa Cao Linh là điểm đến không thể bỏ qua khi bạn muốn khám phá nét đẹp kiến trúc và văn hóa tâm linh của vùng đất hoa phượng đỏ.

Chùa Cao Linh có niên đại 300 năm. Sau nhiều lần trùng tu, ngôi chùa hiện nay đang sở hữu vẻ đẹp ấn tượng. Từ cổng ngũ quan đến bảo điện, du khách khó có thể thấy ở đâu sự cổ kính mà xa hoa đến vậy.

Lịch sử

Chùa Cao Linh được xây dựng vào thời Hậu Lê, cách đây hơn 300 năm bởi dòng họ Lê Văn tại làng Hà Liên. Ban đầu, chùa chỉ có 3 gian tiền đường, 5 gian nhà tổ, 2 gian hậu cung và 3 gian nhà bếp.

Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chùa Cao Linh còn là nơi bảo vệ, ẩn náu của nhiều chiến sĩ yêu nước. Chùa bị thực dân Pháp tấn công và chịu ảnh hưởng nặng nề với toàn bộ 20 gian nhà bị tàn phá và đốt trụi. Đến năm 2011 thì chùa Cao Linh được trùng tu mạnh mẽ và xây dựng nhiều khu vực mới như Cổng Ngũ Quan, Đại Hùng Điện Bảo, Vườn Tháp, La Hán Đường, Vãng Sinh Đường,... biến nơi đây thành một địa điểm du lịch tâm linh nổi bật tại Hải Phòng.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Điểm ấn tượng đầu tiên khi bước vào chùa Cao Linh là khu vực cổng Ngũ Quan tráng lệ. Mái cổng được thiết kế theo kiến trúc truyền thống, mái cong về hai đầu, đỉnh mái được đặt bánh xe pháp luân và đoá sen tinh khiết tượng trưng cho sự luân hồi. Cổng được dát vàng nên rất nguy nga lộng lẫy, bên dưới chân cổng đặt 6 linh vật bằng đá mang ý nghĩa trấn yểm. Nhìn lên trên sẽ là phần mái vòm được chạm trổ đầy hoạ tiết như rồng bay, phượng múa cùng hình ảnh Đức Phật A Di Đà ngồi thiền trên mây.

Từ cổng nhìn vào, du khách sẽ thấy ngay tượng Quan Thế Âm Bồ Tát uy nghiêm, tạo nên sự trang nghiêm và ấn tượng mạnh mẽ khi bước vào khuôn viên chùa. Có thể nói những công trình tại chùa Cao Linh đều mang những nét thiết kế cực kỳ độc đáo khiến ai cũng phải bất ngờ khi nhìn vào.

Đại Hùng Bảo Điện chắc chắn là công trình quan trọng bậc nhất tại chùa Cao Linh. Đại Hùng Bảo Điện được xây dựng theo kiến trúc chữ Đinh bao gồm 3 gian tiền đường và 1 gian hậu cung được xếp theo hình chữ Đinh. Phần mái bảo điện được lợp 3 cấp, phía trên nhỏ dần với phần đuôi cong vút lên như cánh cung.

Bên trong chính điện, du khách sẽ chiêm bái nhiều tượng Phật như Phật Thích Ca Mâu Ni, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát,… cùng những câu đối và hoành phi mang đậm ý nghĩa tâm linh. Đây là nơi linh thiêng nhất tại chùa, là điểm dừng chân để mọi người dâng hương, cầu bình an trong không gian trang nghiêm.

Xung quanh khu vực Chính Điện sẽ là các tòa tháp bằng đá với thiết kế tinh xảo. Tháp có đế hình trụ cùng nhiều chiều cao đa dạng, phần mái được chạm trổ hình rồng với tư thế bay lên cao cực kỳ nổi bật. Chân tháp được tạo hình thành những cánh sen màu nâu, đỉnh tháp cũng có thêm một đoá sen như đang e ấp.

Xung quanh các tháp là khuôn viên cây xanh và hoa lá, mang lại không gian trong lành, yên tĩnh. Đặc biệt, đây còn là nơi lưu giữ tro cốt của các vị trụ trì đã viên tịch, giúp Vườn Tháp trở thành điểm nhấn linh thiêng và ý nghĩa tại chùa Cao Linh.

Ngoài ra, chùa Cao Linh vẫn còn rất nhiều công trình nổi bật khác như:

  • Chuông đồng nặng 3,2 tấn
  • Khu vườn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp, nơi tái hiện hình ảnh Đức Phật giảng đạo
  • Cây Bồ Đề được mang về từ Bồ Đề Đạo Tràng
  • Hệ thống tháp đá chạy dọc quanh tường, tạo nên cảnh quan ấn tượng và hài hòa

Để chuyến tham quan chùa Cao Linh Hải Phòng thuận lợi, du khách nên ghé thăm từ tháng 4 đến tháng 10. Thời gian này, thời tiết Hải Phòng có nắng đẹp, ít mưa, rất lý tưởng để khám phá.

Thời gian tốt nhất trong ngày là từ 7h00 đến 11h00 sáng, khi trời mát mẻ và ánh sáng đẹp để chụp ảnh. Buổi chiều cũng là lựa chọn phù hợp, nhưng hãy lưu ý rằng trời có thể tối nhanh, gây khó khăn cho việc tham quan.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Bắc Hà, xã Bắc Sơn, huyện An Dương, TP. Hải Phòng, Việt Nam.

freSy with passion

Khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc - Hải Dương

freSy with passion

Giới thiệu

Di tích Côn Sơn-Kiếp Bạc thuộc địa bàn thành phố Chí Linh, được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt năm 2012. Nơi đây gồm quần thể các di tích lịch sử liên quan đến những chiến công lẫy lừng trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Đây là nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang… Điểm nhấn của khu di tích này là chùa Côn Sơn và đền Kiếp Bạc.

Lịch sử

Khu di tích Côn Sơn Kiếp Bạc mang giá trị lịch sử to lớn. Vùng đất này gắn liền với những chiến công lẫy lừng của quân dân nhà Trần trong ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông vào thế kỷ XIII.

Khu di tích Kiếp Bạc được biết đến là trung tâm nội đạo thờ Đức Thánh Trần, trong khi đó Côn Sơn là một trung tâm Phật giáo quan trọng của thiền phái Trúc Lâm Đại Việt, được sáng lập bởi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông vào thế kỷ XIV.

Tại đây, các tư tưởng lớn của Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo đã hòa quyện, tạo nên tinh thần tam giáo đồng nguyên, phục vụ cho mục tiêu củng cố tư tưởng độc lập tự chủ và quy tụ nhân tâm trong lịch sử dân tộc.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Côn Sơn tọa lạc dưới chân núi Côn Sơn, là một công trình Phật giáo lâu đời có từ thời nhà Đinh. Tương truyền, đây từng là nơi Đinh Bộ Lĩnh hun gỗ làm than, dẹp loạn 12 sứ quân, nên còn được gọi là chùa Hun. Chùa Côn Sơn cũng là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm, gắn liền với sự nghiệp của Thiền sư Huyền Quang – vị tổ thứ ba, cùng nhiều danh nhân như Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Đán. Ngày nay, chùa Côn Sơn còn lưu giữ nhiều cổ vật quý giá và dấu tích quan trọng, thu hút du khách đến chiêm bái và tìm hiểu về một phần tinh hoa văn hóa lịch sử Việt Nam.

Thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, đền Kiếp Bạc là nơi thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ngôi đền tọa lạc tại một thung lũng trù phú, được bao quanh bởi dãy núi Rồng và dòng Lục Đầu Giang, nên nơi đây từng là căn cứ địa của Trần Hưng Đạo trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII. Đền Kiếp Bạc được xây dựng từ thế kỷ XIV, lưu giữ nhiều di vật quý giá, bao gồm 7 pho tượng đồng thờ Trần Hưng Đạo, gia đình và các tướng tài. Đến với đền Kiếp Bạc vào dịp lễ hội diễn ra vào tháng 8 âm lịch hàng năm, du khách không sẽ cảm nhận được không khí linh thiêng đầy khí phách của vùng đất này.

Đến với khu di tích Côn Sơn Kiếp Bạc, bạn không nên bỏ qua đền thờ Nguyễn Trãi tọa lạc tại chân núi Ngũ Nhạc, tựa lưng vào núi Tổ Sơ trên diện tích 10.000m². Công trình được xây dựng năm 2000 mang đậm dấu ấn kiến trúc truyền thống, với bức tượng đồng Nguyễn Trãi cao 3,7m uy nghi đặt ở Thượng điện. Đây là điểm đến quan trọng, kết hợp giữa du lịch lịch sử và tâm linh, tưởng nhớ công lao to lớn của anh hùng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi.

Đền thờ Trần Nguyên Hãn nằm gần bờ suối thơ mộng trong khu di tích Côn Sơn Kiếp Bạc, ngay phía trên đền thờ Nguyễn Trãi. Đền được xây dựng để tôn vinh công lao của Trần Nguyên Hãn – vị danh tướng nhà Lê Sơ và em con cậu của Nguyễn Trãi, người đã góp phần quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân Minh. Ngôi đền vẫn giữ được nét kiến trúc truyền thống với mái ngói cong vút, tạo nên vẻ đẹp giản dị mà trang nghiêm. Bên trong, tượng Trần Nguyên Hãn được đặt uy nghiêm, bao quanh là cảnh sắc xanh mát, mang đến không gian thanh bình và linh thiêng cho du khách ghé thăm.

Đền thờ Trần Nguyên Đán, còn gọi là đền Thanh Hư, nằm trên lưng chừng núi Côn Sơn, gần thượng nguồn suối Côn Sơn. Công trình này được xây dựng trên nền nhà cũ của Trần Nguyên Đán – vị quan tài ba, ông nội của Nguyễn Trãi, người đã góp phần quan trọng trong việc nuôi dưỡng và giáo dục Nguyễn Trãi. Với kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, đền thờ gồm các hạng mục như nghi môn, sân đền, bái đường, và thượng điện. Bên trong, tượng Quan Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán được đặt uy nghi, xung quanh là hệ thống hoành phi, câu đối, và đồ thờ được bài trí theo phong cách truyền thống, thể hiện sự kính trọng và tôn vinh vị danh nhân văn hóa lỗi lạc thời Trần.

Lễ hội mùa xuân Côn Sơn Kiếp Bạc diễn ra từ ngày 14 đến 23 tháng Giêng âm lịch hàng năm, là một sự kiện văn hóa lớn thu hút đông đảo du khách thập phương. Điểm nhấn là lễ khai hội vào ngày 16 tháng Giêng với nhiều nghi thức trang trọng khi tiếng chiêng, tiếng trống vang vọng khắp núi rừng Côn Sơn.

  • Lễ hội vẫn giữ nguyên các nghi thức truyền thống như: dâng hương khai hội, tế khai xuân, lễ rước nước, tế trên núi Ngũ Nhạc, và lễ giỗ Đệ Tam Tổ Trúc Lâm Huyền Quang Tôn giả.
  • Phần hội cũng rất phong phú với các hoạt động như thi gói bánh chưng, giã bánh dày, liên hoan pháo đất, vật dân tộc, và biểu diễn văn hóa nghệ thuật đặc sắc.

Đây không chỉ là dịp để du khách du xuân và khám phá cảnh sắc thiên nhiên tại khu di tích Côn Sơn Kiếp Bạc mà còn là cơ hội để tìm hiểu về lịch sử, văn hóa và nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Lễ hội mùa thu Côn Sơn Kiếp Bạc được tổ chức từ ngày 10 đến 20 tháng 8 âm lịch hàng năm, là một sự kiện lớn thu hút đông đảo du khách thập phương đến tham gia. Lễ hội không chỉ để tưởng nhớ công lao của Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo mà còn để tôn vinh các vị anh hùng khác như Nguyễn Trãi, những người đã có công bảo vệ và xây dựng đất nước.

Lễ hội mùa thu còn được gọi là lễ giỗ Đức Thánh Trần, diễn ra vào tháng Tám âm lịch. Đây là dịp để cầu mong sự may mắn, bình an và quốc thái dân an. Các nghi lễ trong lễ hội bao gồm dâng hương và tế cáo yết, lễ khai ấn và ban ấn tại đền Kiếp Bạc, lễ tưởng niệm ngày mất của Nguyễn Trãi, cùng lễ giỗ Đức Thánh Trần.

Ngoài các nghi thức trang trọng, phần hội của lễ hội mùa thu còn phong phú với các trò chơi dân gian truyền thống như múa rối nước, đua thuyền, và các hoạt động văn hóa, nghệ thuật đặc sắc, tạo nên không khí vui tươi, đậm đà bản sắc dân tộc.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Côn Sơn - Kiếp Bạc thuộc địa bàn thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Giám (Nghiêm Quang Tự) - Hải Dương

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Giám (tên chữ là Nghiêm Quang Tự) (chữ Hán: 嚴光寺) là một ngôi chùa thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Đây là công trình Phật giáo độc đáo chỉ có duy nhất ở Việt Nam. Đây là công trình Phật giáo được xây dựng từ thời nhà Lý. Vào cuối thế kỷ 17, chùa Giám đã được xây dựng lại và được trùng tu vào đầu thế kỷ 20. Chùa là nơi thờ, tưởng niệm vị Thánh thuốc Nam - Đại danh y Thiền sư Tuệ Tĩnh.

Lịch sử

Tiền thân của chùa Giám chính là chùa Nghiêm Quang Tự. Ngôi chùa này được xây dựng trên khu vực của một cánh đồng thuộc phía Đông của địa bàn huyện Cẩm Giàng. Đây chính là nơi mà thiền sư Tuệ Tĩnh đã từng hành nghề thuốc để cứu người.

Sau 6 thế kỷ tồn tại, ngôi chùa đã bị xuống cấp nhiều. Thời gian chiến tranh xảy ra cũng khiến cho ngôi chùa càng bị phá hủy nhiều hơn.

Do đó, vào tháng 4 năm 1970, ngôi chùa đã phải dời đi khoảng 7 km và được tiến hành xây dựng lại theo lối kiến nguyên thủy. Đó chính là ngôi chùa Giám hiện nay. Vị trí của nó chính xác nằm cách địa điểm Văn miếu Mao Điền thuộc phía tây nam khoảng 4 km.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Cùng với sự thanh tịnh vốn thấy của chốn chùa chiền, chùa Giám trở thành một điểm đến thăm thú quen thuộc còn nhờ vào nét đẹp trong lối kiến trúc làm say đắm lòng người.

Khi đến đây, du khách sẽ thấy phía trước cổng tam quan của chùa có đề 3 chữ Hán “Quán Tự Tại”. Phía sau tam quan chính là khu vực sân gạch, hồ nước hình chữ nhật và lối cây xanh được trồng dọc theo ven lối đi. Phía bên trái lối đi, bạn sẽ bắt gặp nghè Giám bên cạnh gốc đa cổ thụ.

Bạn cũng có thể thăm thú kiến trúc hòn nam bộ rồi đi đến khu vực sân tiền đường. Muốn vào bên trong chùa thì cứ đi dọc từ sân tiền đường men theo bức tường dài phía bên phải là được. Nét đẹp trong kiến trúc của chùa Giám mang đậm nét đẹp nghệ thuật kiến trúc của thời Lê Hưng. Cụ thể khu vực chùa chính được xây vây kín với các tường và để sang nhà Tăng thì có các cửa ngách được xây thông sang. Khu vực tiền đường trong chùa có vẻ thấp hơn các lối kiến trúc khác nhưng lại rất rộng. Toàn bộ khuôn viên này bao gồm có 5 gian 2 dĩ. Nó được liên kết với phần hậu cung theo kiến trúc hình chuôi vồ. Họa tiết chạm hoa lá, cửa võng chạm hình ảnh quần long cầu kỳ là chi tiết rất dễ bắt gặp. 1 quả chuông cổ được treo ở khu vực gian hữu mạc. Ở kiến trúc nằm sau hậu cung, vị trí này nổi bật với 1 cột hương cổ bằng đá. Ngôi nhà này rộng gần 8m2 có chiều cao hơn 10m và cao tời 3 tầng với 12 mái rất đẹp. Đây được xem là ngôi nhà có kiến trúc tinh xảo và ấn tượng mà hầu hết các du khách tới đây đều muốn chiêm ngưỡng. Khu vực hành lang tả hữu song song bên ngoài chính điện được xây dựng với phần mái thấp và có 11 gian thờ tượng của 18 vị La Hán cùng với bài trí xen lẫn các tấm bia đá cổ. Ở khu vực bên hữu của chùa chính nổi bật với vườn tháp mộ trầm mặc. Trong khi đó bên tả của chính điện là khu vực sân cây cảnh được bài trí cạnh dãy nhà của các Tăng. Điểm nhấn tạo nên tiếng tăm cho chùa Giám chính là tòa Cửu phẩm liên hoa được lưu giữ ở đây. Như thông tin vừa đề cập ở trên thị tòa Cửu Phẩm liên hoa hiện đang được đặt ở khu vực nhà cửu phẩm. Tòa Cửu phẩm được tạo nên với những hoa văn có tính thẩm mỹ cực kỳ cao và ấn tượng với lớp sơn son thiếp vàng bên ngoài. Vào ngày lễ Phật thì Cửu phẩm liên hoa mới được mọi người đẩy ra ngoài 1 cách nhẹ nhàng. Điểm nhấn đặc biệt ở Cửu phẩm liên hoa chính là phía trên các tầng hoa sen có tới 144 pho tượng trên 54 lần cánh sen. Tầng trên cùng của cửu phẩm thì có tượng A di đà. Cửu phẩm liên hoa là tòa cửu phẩm được lưu giữ nguyên bản lối kiến trúc cổ. Đây là 1 trong 3 tòa cửu phẩm (bên cạnh Bút Tháp và Động Ngọ) mang những giá trị đặc biệt về nghệ thuật điêu khắc ở nước ta. Tòa Cửu phẩm liên quan bên cạnh việc thể hiện thông điệp từ bi, vị tha và bác ái của đạo Phật, nó còn thể hiện sự phát triển bền bỉ và vững mạnh của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử ở Việt Nam.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Trăm Gian - Hải Dương

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Trăm Gian ở thôn An Đông, xã An Bình (Nam Sách) được hình thành cách đây khoảng 1.000 năm, từng là một ngôi chùa lớn, trung tâm Phật giáo của cả nước, trường dạy kinh Phật cho hàng nghìn phật tử. Đến nay, ngôi chùa này vẫn giữ được kiến trúc độc đáo và nhiều cổ vật giá trị.

Lịch sử

Tọa lạc ở thôn quê yên bình, gần dòng sông Kinh Thầy, chùa Trăm Gian còn có tên chữ là Vĩnh Khánh. Ấn tượng đầu tiên khi bước chân vào ngôi chùa là không gian thanh tịnh với những mái ngói rêu phong, hành lang vắng lặng, vườn tháp cổ kính.

Được xây dựng với quy mô lớn vào thế kỷ XVII và được trùng tu nhiều lần vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên kiến trúc ngôi chùa mang dấu ấn của thời đại này.

Tương truyền chùa có từ thời Lý (khoảng thế kỷ XI). Đến thời Trần, tướng quân Nguyễn Huy Tĩnh đóng quân tại chùa để chặn quân Nguyên từ hướng sông Bạch Đằng đánh vào Thăng Long. Đến triều nhà Lê, ngôi chùa được xây dựng với quy mô lớn. Thời điểm đó có người trong làng họ Nguyễn, Phật hiệu là Diệu Quang tu học theo dòng Trúc Lâm trụ trì tại chùa. Hằng năm cứ đến tiết lập hạ là ông mở lớp giảng kinh Phật nên tăng ni theo học rất đông. Đến thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ngôi chùa là cơ sở cách mạng, sau này một phần chùa trở thành trụ sở UBND xã. Khi UBND xã xây trụ sở mới, ngôi chùa trở lại thành điểm sinh hoạt văn hóa của nhân dân trong vùng.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Các công trình chính của chùa nằm trong một quần thể kiến trúc gần như khép kín. Từ phía đông, mở đầu là gác chuông với 5 gian bít đốc, 3 gian giữa chồng diêm, mái cong. Gác chuông treo quả chuông được đúc năm Thành Thái thứ 2 (1890) cao 125 cm. Cách gác chuông 2 m về phía sau là tiền đường 7 gian dài 16 m, rộng 8 m, nối liền với tiền đường là 3 gian tam bảo dài 11 m, rộng 8 m tạo thành hình chữ đinh.

Ba mặt của tam bảo là một sân hẹp. Bên trái tam bảo là nhà mẫu. Bên trái nhà mẫu là hai nhà khách nối liền nhau, nhà ngoài 3 gian, nhà trong 5 gian. Phía sau tam bảo là nhà Tứ Ân gồm 7 gian, rồi đến nhà tổ. Sau nhà tổ có một khoảng sân rộng 4 m, tiếp đó là nhà cung gồm 9 gian. Nối nhà khách với nhà cung là một hành lang 8 gian 2 chái. Phía sau chùa là một vườn tháp gồm 10 ngôi, trong đó có 9 ngôi được xây dựng vào thời Nguyễn và 1 ngôi được xây dựng năm 2003. Quay vào một sân rộng trên 1.000 m2 là nhà tháp, nhà tăng, am trong, am ngoài và nhiều công trình phụ thuộc khác. Những công trình này một phần bị phá hủy, số còn lại đã biến dạng.

Đến nay tại chùa Trăm Gian còn lưu giữ được hàng trăm cổ vật có giá trị như các pho tượng Phật có niên đại thời Lê và thời Nguyễn, trong đó có tượng Trúc Lâm tam tổ, nhiều đại tự, câu đối, bát hương cổ, bia đá...

goài những cổ vật quý hiếm, chùa Trăm Gian còn nổi tiếng với những mộc bản kinh Phật phục vụ in ấn. Ngôi chùa còn lưu giữ được hơn 700 mộc bản kinh Phật thuộc 7 đầu sách kinh. Trong 7 đầu sách này có 2 đầu sách là Di Đà sớ sao (kinh giảng về cõi Tây Phương cực lạc) và Nhân vương hộ quốc (lời Phật dạy cho các bậc quân vương, hoàng thân quốc thích về cách cai quản đất nước) đã thất lạc nhiều bản. Còn 5 đầu sách giữ được trọn vẹn là Giới đàm tăng (dành cho các nhà sư lên chức thụ giới), Giới đàm ni (dành cho các ni lên chức thụ giới), Dược sư đề cương (sách thuốc), Nhật tụng (khóa lễ hằng ngày). Đặc biệt là bộ Khóa Hư Lục - pho sách Phật giáo của Việt Nam do Trần Thái Tông (1218-1277) biên soạn. Cách đây khoảng 5-6 năm, đại đức Thích Tục Phương, trụ trì chùa Trăm Gian đã cho khôi phục một số mộc bản kinh Phật còn lưu giữ tại chùa.

Số mộc bản kinh Phật này được nhà sư Viên Giác cho khắc từ thời vua Minh Mạng (1791-1841) đến thời vua Tự Đức (1829-1883) để giảng đạo. Chữ được khắc trên các mộc bản thuộc sách Nhật tụng một nửa là chữ Hán, một nửa là chữ Nôm, còn tất cả chữ khắc trên các mộc bản khác là chữ Hán.

Các mộc bản được làm bằng gỗ, ở trên hằn lên màu đen của mực. Thời điểm đó nhà chùa có 12 mẫu ruộng, 2 con trâu, thu nhập từ đó được chia làm 3phần để khắc bản in kinh, duy trì cuộc sống sư sãi và lo việc hương nhang.

Năm 1990, ngôi chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Năm 2019 được UBND tỉnh công nhận là điểm du lịch.

Mang trong mình giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hóa nhưng hiện nay chùa Trăm Gian không còn giữ được nguyên vẹn kiến trúc từng có. Đầu thế kỷ XX, ngôi chùa còn đủ 100 gian, trải qua chiến tranh ác liệt chỉ còn 82 gian. Năm 2009, chùa được đầu tư 13 tỷ đồng để tu bổ, tôn tạo nhiều hạng mục, nâng tổng số lên 85 gian. Sau này, ngôi chùa nhiều lần được tôn tạo các hạng mục nhưng tòa nhà mẫu, nhà thiền và nhà để bia hậu trước kia bị phá hủy đến nay vẫn chưa được tu bổ, phục dựng. Nhà chúng (để các tăng ni, phật tử các nơi về nghe giảng đạo) đã đóng cửa 2 năm nay do mái bị xô và sụt từng mảng lớn, cửa mục, tường bong tróc. Một số mộc bản trong chùa đã mục, hư hỏng, chữ trên một số mộc bản đã bị mòn, vỡ.

Là danh thắng có một không hai của xứ Đông, chùa Trăm Gian cần sớm được quan tâm tôn tạo, quảng bá để giữ gìn, phát huy giá trị lịch sử, văn hóa độc đáo của mình.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã An Bình, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Văn Miếu Mao Điền - Hải Dương

freSy with passion

Giới thiệu

Văn miếu Mao Điền thuộc làng Mậu Tài, xã Mao Điền, nay thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương là một trong số ít văn miếu còn tồn tại ở Việt Nam. Nguyên được lập ra để tổ chức các kỳ thi Hương của trấn Hải Dương xưa nhưng vào thời nhà Mạc đã bốn lần tổ chức khoa thi Hội. Văn miếu Mao Điền nằm ngay cạnh đường quốc lộ số 5 từ Hà Nội đi Hải Phòng, cách thành phố Hải Dương 15 km về phía tây.

Tại miền Bắc Việt Nam, Văn miếu Mao Điền có quy mô và lịch sử lâu đời đứng thứ 2, chỉ sau Văn miếu Quốc Tử Giám. Văn miếu Mao Điền được lập ra để thờ Khổng Tử và các bậc đại nho theo truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc và một số nước Đông Á khác.

Lịch sử

Từ giữa thế kỷ 15, với chủ trương mở mang việc học hành và đào tạo nho sĩ, nhà Lê sơ đã cho xây dựng một loạt những trường học (trường quốc lập) trong đó có trường thi hương Mao Điền (huyện Cẩm Giàng).

Đến khoảng năm 1740, sau khi dời trấn lỵ của Hải Dương từ Dinh Lệ (ở Mặc Động - Chí Linh) về Dinh Dậu (Mao Điền) thì cho lập Văn miếu Vĩnh Lại (huyện Đường An), (nay thuộc xã Vĩnh Tuy huyện Bình Giang). Đây là văn miếu hàng tỉnh được xây dựng sớm nhất ở miền Bắc.

Năm 1801 dưới thời Tây Sơn, Văn miếu được di chuyển từ Vĩnh Lại về Mao Điền cùng với Trường thi hương trấn Hải Dương và trở thành nơi tạo ra hàng nghìn cử nhân, tiến sỹ Nho học, đứng hàng đầu cả nước. Năm 1807, dưới triều Nguyễn, trường thi Hương Hải Dương gần như chấm dứt vai trò sau kì thi Hương ở Hải Dương cuối cùng được tổ chức. Tuy nhiên, Văn Miếu Mao Điền thì tiếp tục duy trì vai trò của mình cho đến khi triều Nguyễn cáo chung vào ngày 30 tháng 8 năm 1945.

Năm 1948 thực dân Pháp đánh chiếm Mao Điền, biến Văn Miếu thành khu căn cứ chiếm đóng, phá nhà, xây lô cốt, tường rào kẽm gai xung quanh. Đạn bom và những năm tháng chiến tranh đã tàn phá di tích nặng nề. Từ một di tích lịch sử có thắng cảnh đẹp, Văn Miếu trở thành một nơi hoang phế.

Trận bão năm 1973 đã đánh sập 5 gian nhà Giải vũ – Tây vu.

Từ năm 2002 đến 2004, dưới thời Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Thị Kim Ngân, được sự đầu tư, hỗ trợ của các ban, ngành Trung ương và các cấp Đảng bộ chính quyền tỉnh Hải Dương đã khởi công xây dựng, tu bổ lại Văn miếu. Sau hơn hai năm nỗ lực thi công, công trình đã khánh thành.

Năm 2010, thực hiện chủ trương “xã hội hóa”, Ban quản lý di tích đã tiếp nhận công đức khắc dựng 01 tấm bia Tiến sĩ Nho học Hải Dương của tập thể CBVC Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương. Số bia còn lại được lắp dựng hoàn thiện trong năm 2016. Ngày 12 tháng 3 năm 2017, Khánh thành 14 bia ghi tên 637 Tiến sĩ Nho học của Hải Dương thời phong kiến.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Ngay từ khi mới xây dựng, Văn Miếu đã là một công trình uy nghi, bề thế và thâm trầm cổ kính với thời gian. Phần chính gồm hai toà nhà lớn 7 gian, mái cong vút chạm trổ hình rồng phượng áp sát vào nhau. Kiến trúc xây theo kiểu chữ Nhị, rộng 10 mẫu (3,6 ha), các hạng mục được quy hoạch đẹp mắt, cân đối, hài hòa từ trong ra ngoài.

Nhà ngoài là nơi tụ hội bái lễ của các bậc quan trường học giả. Hai bên là hai dãy nhà giải vũ 5 gian đối diện nhau, do nằm ở hai hướng Đông và Tây nên người dân nơi đây vẫn quen gọi là nhà Đông vu, Tây vu. Đông vu là nhà truyền thống còn Tây vu là nhà khách. Hai bên vách treo danh sách 637 vị tiến sĩ quê Hải Dương đỗ đạt trong các thời kỳ khoa cử Việt Nam.

Sảnh chính của văn miếu với gian nhà giữa và gác chuông, gác trống hai bên, ở sân có cây gạo cổ thụ hàng trăm năm tuổi.

Ngoài có đài nghiên, tháp Bút, Nghi Môn, Thiên Quang Tinh, Khái Thánh thờ thân Phụ và thân Mẫu của Khổng Tử. Tiếp đến là gác Chuông, gác Trống đối xứng với nhau và nằm ở phía hai đầu hồi dãy nhà giải vũ. Tiếp đến là hai gác chuông xây cất rất hoành tráng. Phía trước là hai hồ nước trong xanh in bóng cây gạo già hàng trăm năm tuổi. Xung quanh là các loại cây cảnh, cây ăn quả.

Xưa kia Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long nên gọi là xứ Đông. Đây là vùng "đất học" vì thế triều Lê đã coi đây là một trong những trung tâm văn hoá giáo dục của cả nước, tiến hành tổ chức nhiều kỳ Thi Hội. Hàng năm đến kỳ thi, sĩ tử ở khắp nơi tề tựu về đây dựng lều chõng kín khắp cả khu cánh đồng Tràn phía trước. Trong số các sĩ tử đó có nhiều người Hải Dương đã tham dự và hiển đạt, như danh sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1535).

Trong quá trình tồn tại, Văn Miếu Mao Điền từ vị trí là trường học của riêng trấn Hải Dương đã trở thành trường thi của cả vùng, góp phần giáo dục và đào tạo nhân tài cho địa phương và cho đất nước.

Trước kia hàng năm vào ngày "Đinh" (T) đầu tháng "trọng xuân" (tháng hai) và "Trọng thu" (tháng tám), trấn Hải Dương tổ chức lễ tế Khổng Tử, các quan đầu trấn, đầu phủ cùng cử nhân, tiến sỹ về làm lễ trọng thể, nêu cao truyền thống "Hiếu học và tôn sư, trọng đạo" của người tỉnh Đông. Việc tế lễ diễn ra trang nghiêm, long trọng và rất đông vui.

Tháng 2 âm lịch hàng năm, tỉnh Hải Dương lại mở hội Văn Miếu. Người Hải Dương ở khắp nơi lại tề tựu về dự lễ hội, báo công, dâng hương tưởng nhớ các bậc danh nhân, tiên hiền của đất nước.

Văn miếu Mao Điền là trường quốc lập lớn thứ hai miền Bắc sau Quốc Tử Giám Hà Nội, văn miếu Mao Điền (Hải Dương) được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.Nhiều đoàn khách du lịch và học sinh, giáo viên các trường đến đây tham quan, chiêm ngưỡng.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Khu di tích Đền, Chùa Cao An Phụ - Hải Dương

freSy with passion

Giới thiệu

Quần thể di tích Đền, Chùa Cao An Phụ tọa lạc tại phường An Sinh, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, là một điểm đến mang đầy đẳng cấp tâm linh và văn hóa. Trong khu vực này, nổi bật là Đền Cao, được biết đến với tên gọi “An Phụ Sơn Từ,” nằm ở đỉnh núi An Phụ với chiều dài 17km và độ cao 246m. Đền này được xây dựng để thờ An Sinh Vương Trần Liễu, phụ thân của Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, và theo truyền thống, mộ của ông vẫn được cho là nằm trong hậu cung của đền.

Ngoài ra, quần thể di tích còn bao gồm chùa Tường Vân, thường được gọi là chùa Cao, nằm ở bên phải của đền Trần Liễu. Chùa Tường Vân thờ Phật theo trường phái Đại thừa và tuân theo triều đại Trần Nhân Tông, Đệ nhất Tổ của Phật giáo Trúc Lâm. Ở bên trái của chùa Tường Vân là đền Mẫu Tứ Phủ.

Dưới chân núi An Phụ, bạn có thể tìm thấy chùa Gạo, được truyền thống là nơi An Sinh Vương Trần Liễu xây dựng để lưu trữ thóc gạo, đóng vai trò là kho lương thực cung cấp cho triều đình.

Lịch sử

Đền Cao

Theo truyền thống, đền Cao được xây dựng vào thời kỳ Trần (thế kỷ XIII). Ban đầu, nó chỉ là một di tích nhỏ, nhưng đến năm Nhâm Dần, bà Trương Thị Điểm từ làng Hà Tràng (nay là xã Thăng Long, huyện Kinh Môn) đã đóng góp công đức và tiền bạc để mở rộng ngôi đền Trung. Sau đó, ông bà Bá Phí từ thôn Phí Xá (thuộc huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng ngày nay) cũng có công đức xây dựng thêm tòa Tiền tế.

Trong thời kỳ Hoàng Định (1600 – 1619), triều đình đã chi ngân sách để sư Nam Nhạc tu bổ. Đến năm Gia Long 16 (1817), ông Nguyễn Văn Tài, người giữ chức vụ Hữu quân lệ úy và được phân công quản lý Kinh Môn phủ, đã chi tiền xây thêm hai giải vũ cho đền.

Vào mùa Xuân năm Quý Mão, tháng 2 năm thứ 15 của vị vua Thành Thái (1903), ngôi đền đã trải qua công đoạn trùng tu. Tấm bia “Trùng tu An Phụ sơn bi ký” được khắc chép lại chi tiết về việc tu sửa di tích, đồng thời ghi rõ tên các nhà hảo tâm đóng góp công sức và tài chính cho công trình này.

Chùa Tường Vân (chùa Cao)

Chùa Tường Vân, được xây dựng bằng tiền trích công quỹ từ triều đình trong khoảng thời gian 1600 – 1819, dưới triều Trần, là một di tích với lịch sử đầy biến động. Thời kỳ Hoàng Định (thế kỷ XVII), triều đình đã giao cho sư Nam Nhạc chỉ công tu bổ. Thông qua những sự thăng trầm trong lịch sử, ngôi chùa đã trải qua nhiều lần tàn phá và trùng tu. Vào năm 1928, bản xã thực hiện việc trùng tu lại 3 gian nhà mẫu và tô vẽ lại tượng. Lần trùng tu gần đây nhất là vào năm 2008. Mặc dù đã trải qua nhiều lần sửa sang và tu bổ, nhưng chùa vẫn giữ nguyên nền móng cũ và vẫn giữ được dáng vẻ cổ kính.

Hiện tại, trụ trì chùa là sư thầy Thích Diệu Nga.

Tại cổng chùa, nhìn ra phía trước là dãy cây đại cổ thụ có tuổi đời gần 700 năm, luôn xanh tốt, như một biểu tượng cho sự bền vững của di tích lịch sử trải qua mọi biến động trên đỉnh núi này. Hai giếng nước trước của chùa, được đặt tên là Giếng Mắt Rồng và Giếng Ngọc, đặc biệt bởi sự độc đáo là không bao giờ cạn nước quanh năm, mặc dù nằm trên đỉnh núi. Tại vị trí này, nhìn về phía Đông Bắc, có thể nhìn thấy núi Yên Tử, là nơi Trần Nhân Tông tu hành và lập nên phái Trúc Lâm Thiền của Việt Nam.

Đặc điểm nổi bật của chùa là sự thờ Tam Giáo Đồng Nguyên, nên bên trong chùa có bày tượng Phật, tượng Đức Thánh Hiền và tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế.

freSy with passion

Các đền chùa khác trong khu di tích

Đền thờ Mẫu Tứ Phủ
Bên trái của chùa Tường Vân, khi đứng tại cổng chùa và nhìn ra, là đền thờ Mẫu Tứ Phủ. Ngôi đền này được xây dựng to lớn tương đương với chùa, với kiến trúc thấp nhưng imposant. Đây là một ngôi đền đặc trưng có đầy đủ các hàng tượng thờ, trong đó có hàng Mẫu ở phía trên cùng gồm ba vị: Mẫu Thiên, Mẫu Nhạc, Mẫu Thoải (trong dân gian, việc bày ba vị mẫu thường được coi như bốn vị Mẫu – Mẫu Tứ Phủ). Dưới hàng Mẫu là các hàng quan, hàng Chầu, hàng Ông Hoàng. Riêng cho Cô và Cậu, có những lầu riêng được xây dựng, nằm phía trước đền và cạnh giếng. Mỗi năm, nhiều du khách đến thăm chùa và tham gia lễ thánh Mẫu tại đây. Nhiều sự kiện lễ hội, bao gồm các biểu diễn của các canh hầu Thánh và các buổi hát văn thường diễn ra tại đền, đặc biệt là vào mùa xuân, thu hút đông đảo khách thập phương.
Chùa Gạo

Ra khỏi cổng khu đền chùa và đi xuống chừng 50m, rẽ trái theo đường bậc đá, bạn sẽ đến chân núi và gặp chùa Gạo. Theo truyền thuyết, chùa Gạo trước đây là kho thóc gạo của An Sinh Vương Trần Liễu, được xây dựng để trữ lương thực cung cấp cho triều đình. Vùng đất nơi chùa Gạo đứng vẫn giữ được không khí hoang sơ, chỉ có những cây mít lâu năm và một số tháp đá cổ.

Năm 2013, chùa được phục dựng lại với 5 gian bái đường và một gian hậu cung. Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, khu di tích An Phụ trở thành căn cứ của bộ đội thông tin, là nơi quan sát máy bay của đối phương, truyền đạt chủ trương và đường lối của Đảng và Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân, cũng như nhận thông tin từ tiền tuyến để hỗ trợ lực lượng vũ trang.

Năm 1985, chính quyền và nhân dân địa phương đã phục dựng lại khu di tích. Năm 2007, khu di tích đã được trùng tu trên quy mô lớn, trở nên khang trang và đẹp đẽ, trở thành nơi tổ chức các hoạt động tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa của cộng đồng.

Tại khu di tích, điều đặc biệt nổi bật là bức tượng Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đặt trên một ngọn núi thuộc dãy An Phụ, cao 200m so với mực nước biển, thấp hơn Đền Cao An Sinh Vương khoảng 50m. Tượng Đức Thánh Trần được tạc bằng đá xanh núi Nhồi – Thanh Hóa, cao 9,7m, thể hiện một vị tướng văn võ toàn diện, chân dung quắc thước nhưng nhân hậu.

Bên cạnh bức tượng Trần Hưng Đạo, có một bức phù điêu bằng đất nung dài 45m, cao 2,5m, do các nghệ nhân Long Xuyên – Bình Giang – Hải Dương thực hiện. Đây là bức phù điêu bằng đất nung lớn nhất Việt Nam, tái hiện lịch sử 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của quân dân nhà Trần, trong đó có phù điêu tái hiện Hội nghị Bình Than.

Thành tựu

Năm 1992, Đền Cao An Phụ, một di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh nằm trong khu vực, đã được xếp hạng là di tích cấp Quốc gia.

Ngày 22/12/2016, khu di tích An Phụ – Kính Chủ – Nhẫm Dương thuộc huyện Kinh Môn đã nhận được sự công nhận từ nhà nước và được xếp hạng là quần thể di tích quốc gia đặc biệt, trở thành di tích thứ hai của tỉnh Hải Dương được đánh giá cao như vậy, sau Côn Sơn – Kiếp Bạc.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: phường An Sinh, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương (cũ), Việt Nam.

freSy with passion

Nguồn: freSy with passion

Bài viết khác

The ÂN - Working with love
Tài trợ & Đối tác
KHỞI NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: HÀNH TRÌNH TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG
The ÂN - Working with love
The ÂN - Working with love
Tình yêu thương

đến từ khách hàng của freSy!

Nhận tin mới nhất