Giữa non nước mờ sương của xứ Lạng, nơi biên cương giao hòa giữa trời đất, ẩn chứa những ngôi đền, chùa linh thiêng mang đậm dấu ấn lịch sử và văn hóa dân tộc. Từ những tháp đền cổ kính ngự trên đỉnh núi, đến các điện thờ tôn nghiêm ven thung lũng, mỗi bước chân hành hương đến Lạng Sơn đều gợi lên cảm giác thanh tịnh, gần gũi với tâm linh Việt. Trong bài viết này, freSy sẽ dẫn bạn ghé thăm 10 đền chùa linh thiêng nhất xứ Lạng — nơi dâng hương cầu phúc, nơi lắng nghe tiếng mõ, tiếng chuông ngân vọng giữa rừng cây trập trùng. Hãy chuẩn bị cho mình tấm lòng thành kính và tâm hồn rộng mở để khám phá những câu chuyện huyền tích, chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo và cảm nhận hơi thở linh thiêng chảy mãi trong từng mái ngói, bức tường đá của vùng đất biên cương này.
Chùa Tam Thanh nằm trong động núi đá (nên còn được gọi tên khác là Động Tam Thanh) thuộc địa phận phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Theo sử sách Đại Nam Nhất Thống Chí thì chùa Tam Thanh có từ thời nhà Lê, thuộc địa phận xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng.
Chùa Tam Thanh hay còn có tên gọi khác là chùa Thánh Thiện, có vị trí độc đáo nằm trong một hang đá của Động Tam Thanh. Chùa có từ thời Lê là một di tích lịch sử tọa lạc tại thị trấn Vĩnh Trại, huyện Châu Thốt Lăng.
Nơi đây thu hút nhiều du khách bởi sở hữu vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc. Phía bên trong chùa nổi bật với 3 hang động lớn là Nhất Thanh, Nhị Thanh và Tam Thanh. Du khách đến đây còn ấn tượng với hồ Âm Ti nơi có làn nước trong xanh bốn, nhiều nhũ đá tự nhiên nhiều hình thù được tạo nên qua hàng nghìn năm.
Ngoài sở hữu những vẻ đẹp của tạo hoá ban tặng, chùa Tam Thanh còn được biết đến với nhiều giá trị văn hóa. Nơi đây lưu giữ một hệ thống bia đá có niên đại cổ xưa từ những năm 1677 kể lại các quá trình lịch sử của các niên đại cổ.
Chùa Tam Thanh ban đầu thờ đạo giáo về Tam Thanh (gồm có Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh). Tuy nhiên, do ảnh hưởng mạnh mẽ của nền Phật giáo nên lúc này tại chùa các yếu tố thờ tự của Phật giáo dần xuất hiện. Nơi đây thờ tượng Thích Ca và chư Phật, đền thời kỳ tam giáo Đồng nguyên chùa còn thờ cả Lão Tử và Khổng Tử.
Đến với Tam Thanh đầu tiên bạn sẽ được ngắm nhìn cảnh quan độc đáo, chùa nằm trong quần thể ba động Nhất Thanh, Nhị Thanh, Tam Thanh. Được bao bọc bởi những vách núi dựng đứng và bầu trời mây mù quanh năm, tạo nên vẻ đẹp vừa huyền diệu, vừa tăng thêm nét tâm linh cho ngôi chùa.
Để vào hang chùa bạn phải vượt qua 30 bậc đá được những người xưa làm đường dẫn vào sâu trong hang động. Đi qua mỗi đoạn, cảnh quang xung quanh mang nét đẹp hoang dại của những hàng cây, xen kẽ với những khối đá có niên đại hàng nghìn năm.
Qua cổng Tam Quan bạn sẽ bước vào bên trong động, cảm nhận một không gian tâm linh, huyền bí và kỳ ảo. Với nhiều điện thờ Phật, trên vách động còn có bài thơ của Ngô Thì Sĩ tả nét đẹp của ngôi chùa Tam Thanh giữa chốn rừng núi hoang sơ, uy nghiêm, bất khuất.
Bức tượng Phật A Di Đà màu trắng nhẹ nhàng, thanh khiết mà trang nghiêm. Bức tượng được tạc thẳng vào vách đá khi nó đứng dưới dạng như một bức tranh kì diệu. Tượng Phật có lối kiến trúc và phần nào thể hiện tư tưởng Phật giáo của nước ta dưới các triều đại Lê – Mạc. Tượng cao 202cm, rộng 65cm trong tư thế áo dài, chân để giữa, tay hướng xuống đất.
Bên trong chùa còn lưu giữ nhiều dấu ấn văn hóa, lịch sử được minh chứng rõ nét qua nhiều kỳ thi sách và khối tài sản của tổ tiên để lại. Đặc thù của chùa Tam Thanh không chỉ là nơi thờ tượng Thích Ca, Phật Tổ. Trong thời Tam giáo, có thời gian chùa còn là nơi thờ Khổng Tử và Lão Tử – hai vị hiền triết của Nho giáo và Lão giáo. Đây có lẽ là điều hiếm có trong các ngôi chùa ở Việt Nam.
Bước vào hang, mọi người không khỏi ngỡ ngàng trước không gian huyền ảo của những hồ nước trong xanh, những thác nước chảy róc rách ngày đêm. Một trong số đó là hồ Âm Ty, hồ đẹp nhất trong quần thể động Tam Thanh. Hồ Âm Ty được bao bọc bởi làn nước trong xanh quanh năm, bao phủ và điểm xuyết bởi vô số thạch nhũ.
Lễ hội chùa Tam Thanh Lạng Sơn là lễ hội truyền thống nổi tiếng của tỉnh, hàng năm thu hút một lượng lớn du khách tới tham quan, du xuân. Tâm điểm của lễ hội là kiệu rước bài vị của danh nhân Ngô Thì Sĩ từ chùa Tam Giáo (động Nhị Thanh) sang chùa Tam Thanh (động Tam Thanh). Kiệu sẽ được rước qua các tuyến đường chính của thành phố Lạng Sơn như Tam Thanh, Tô Thị. Người dân ở đây sẽ chuẩn bị các món đồ dâng lễ trang trọng để tiếp đón đoàn rước kiệu đi qua.
Lễ rước bài vị chùa Tam Thanh Lạng Sơn cũng là một trong những nét văn hóa tâm linh quan trọng của người dân xứ Lạng. Với các hồi trống rộn ràng phối hợp cùng các điệu múa lân uyển chuyển, tạo ra một không khí vô cùng náo nhiệt, vui tươi của dịp đầu năm mới thu hút người dân và du khách thập phương ghé thăm, dâng hương để cầu những điều tốt đẹp đến với bản thân và gia đình.
Địa chỉ: Tam Thanh, Thành phố Lạng Sơn, Tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam
Chùa Tiên có tên gọi khác gọi là chùa Song Tiên. Chùa Tiên nằm trong lòng núi Đại Tượng, thuộc địa phận phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, cách trung tâm thành phố Lạng Sơn khoảng 1 km. Chùa Tiên Lạng Sơn không chỉ là di tích thắng cảnh thu hút du khách tham quan mà còn là điểm sinh hoạt tín ngưỡng, nơi thờ tổ tiên, Thánh Phật, các vị có công với đất nước.
Chùa nằm ở chính giữa lòng núi Đại tượng, là một động lớn, có vòm cao, rộng; trong động có hàng nghìn nhũ đá tạo nên muôn hình, muôn vẻ. Tất cả đều lung linh, sống động như trong một thế giới thần tiên.
Theo các nguồn sử liệu, Chùa Tiên được lập từ thời Lê Hồng Đức (khoảng từ năm 1460 - 1497). Khởi nguyên là một ngôi chùa nhỏ nằm cạnh Giếng Tiên bên sườn núi Đèo Giang - Văn Vỉ (cách cửa sau động chùa Tiên khoảng 200m). Sau đó, vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVIII, do bị xuống cấp, Chùa được chuyển vào trong động Song Tiên.
Động chùa Tiên có hệ thống văn bia với 13 bia Ma Nhai. Đây là nguồn sử liệu quan trọng về di tích và có giá trị về văn học nghệ thuật do các văn nhân thi sĩ, quan lại dưới các triều phong kiến Việt Nam xưa lưu lại. Nội dung chính là ca ngợi cảnh đẹp của núi Đại tượng và ghi lại những lần trùng tu tôn tạo di tích của người xưa. Đây là 1 trong 8 cảnh đẹp được Ngô Thì Sỹ ca ngợi trong bài thơ "Trấn Doanh bát cảnh" được ông ghi dấu tại động chùa Tiên.
Chùa Tiên có cửa động ở ngang lưng chừng núi, muốn vào động phải vượt qua 65 bậc đá quanh co, khiến du khách cảm thấy như đang tới một chốn bồng lai, tiên cảnh.
Chùa Tiên nằm trong một hang đá lớn, có vòm cao, rộng với hệ thống tượng thờ vô cùng phong phú, đa dạng. Chùa Tiên có rất nhiều khu vực thờ với những cung, động thờ như: cung Tam Bảo, cung Tam Tòa Thánh Mẫu, cung Sơn Trang, cung Cô Chín...
Trong lòng núi Đại Tượng ẩn chứa rất nhiều vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên với những thạch nhũ đá muôn hình, muôn vẻ từ vòm động, vách động, rất lung linh và vô cùng sống động. Ngoài động chính giữa lòng núi, chùa còn có rất nhiều khe, hốc, có những ngách hang thông ra sườn núi. Từ đây có thể chiêm ngưỡng cảnh quan thành phố Lạng Sơn với con sông Kỳ Cùng tựa như dải lụa mềm quanh co, uốn lượn.
Trải qua thăng trầm lịch sử chùa Tiên vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị niên đại nghệ thuật, tiêu biểu là 13 bia khắc trên vách đá của các văn nhân thi sĩ, quan lại dưới các triều đại phong kiến Việt Nam xưa lưu lại.
Chùa Tiên không chỉ là nơi thỏa mãn nhu cầu tâm linh của bà con Nhân dân trong vùng mà còn là điểm du lịch thu hút rất đông du khách đến với Xứ Lạng hằng năm, là một di tích danh thắng và là một địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng, là nơi thờ Tiên, thờ Phật, Thánh Mẫu, thờ các vị anh hùng dân tộc. Chùa có cung Tam Bảo với hệ thống tượng phật bài trí khá hoàn chỉnh, có cung thờ Mẫu, thờ vọng đức Thánh Trần...
Gắn liền với Chùa Tiên còn có di tích Giếng Tiên. Đó là một mạch nguồn nước mát tuôn ra từ lòng núi, nước trong vắt không bao giờ cạn. Giếng Tiên gắn với câu chuyện huyền thoại về Tiên ông. Miệng giếng chính là vết chân của Tiên ông giẫm xuống phiến đá mà thành.
Bên cạnh Chùa Tiên - Giếng Tiên, còn có hang Thủy Cung cũng nằm trong lòng núi Đại Tượng, cửa hang cách lối lên cổng Chùa Tiên khoảng 200m với nhiều nhũ đá được thiên nhiên kiến tạo qua hàng nghìn năm vô cùng đẹp mắt.
Khi màn đêm buông xuống, hệ thống ánh sáng tại chùa Tiên càng tôn lên vẻ đẹp của danh thắng tựa như một viên ngọc quý tỏa sáng giữa lòng thành phố. Tham quan, vãn cảnh chùa Tiên sẽ là trải nghiệm tuyệt vời, hứa hẹn sẽ làm hài lòng mỗi du khách khi có dịp đến với mảnh đất Xứ Lạng.
Hàng năm, vào ngày 18 tháng Giêng, nhân dân trong vùng lại mở hội lớn tại Chùa Tiên. Đây là nơi thỏa mãn nhu cầu tâm linh, là nơi gặp gỡ, giao lưu tình cảm, nơi diễn ra các trò chơi, trò diễn dân gian truyền thống của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn.
Địa chỉ: Hùng Vương, Phường Chi Lăng, Thành phố Lạng Sơn, Lạng Sơn, Việt Nam
Chùa Bắc Nga (còn được gọi là Tiên Nga Tự) có địa chỉ tại thôn Bắc Nga, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn là địa điểm du lịch tâm linh ở Lạng Sơn thu hút đông đảo du khách tới thăm viếng hằng năm.
Chùa Bắc Nga là ngôi chùa ở Lạng Sơn rất nổi tiếng, ấn tượng với vị trí tọa lạc trên sườn đồi rộng, mặt trước hướng ra sông Kỳ Cùng và QL4B. Chùa Bắc Nga có hướng lưng tựa núi với phong cảnh sơn thủy hữu tình. Về kiến trúc, chùa được thiết kế đơn giản với các tượng Phật, pho tượng nhỏ tại ban Tam bảo cùng những bia công đức.
Qua tích chuyện lưu truyền trong dân gian, rằng nơi đây cảnh đẹp, thường có bầy tiên nữ bay về hái hoa, bắt bướm và tắm ở khúc sông Kỳ Cùng này. Sau đó, nhân dân trong vùng đã góp công, góp của xây dựng Miếu thờ Tiên tại đây với mong muốn các tiên nữ phù hộ cho dân làng một cuộc sống bình an hạnh phúc và lấy ngày 15 tháng Giêng hàng năm để làm Lễ hội Chùa, mời Tiên, mời Phật về phù hộ cho dân làng được bình an, hạnh phúc. Sau này cũng có nhiều tiền nhân, công thần văn sĩ ngưỡng mộ cảnh đẹp đã phát tâm, bỏ tiền trùng tu, tôn tạo miếu thờ Tiên, sau thành chùa thờ Tiên, rồi thờ Phật, gọi là Chùa Bắc Nga (Tiên Nga Tự).
Với địa thế “rồng chầu hổ phục," Chùa Bắc Nga có giá trị độc đáo, đặc sắc về kiến trúc và tín ngưỡng tôn giáo, với nhiều mộc bản được xác định khắc vào cuối thời Lê Trung Hưng.
Lễ hội truyền thống Chùa Bắc Nga, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã được công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể cấp Quốc gia theo Quyết định số 231/QD-BVHTTDL ngày 14/2/2023 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Về kiến trúc, chùa Bắc Nga được thiết kế đơn giản với tượng Phật, các pho tượng nhỏ tại ban Tam Bảo cùng những bia công đức. Mặc dù không có thiết kế hoành tráng như như những ngôi chùa khác ở Lạng Sơn, nhưng chùa
Bắc Nga lại rất nổi tiếng linh thiêng và trở thành điểm đến thu hút du khách hàng đầu tại xứ Lạng.
Lễ hội Chùa Bắc Nga là lễ hội tiêu biểu được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng hằng năm. Đây là một trong hai lễ hội truyền thống lớn nhất của huyện Cao Lộc.
Đông đảo người dân trên địa bàn và du khách thập phương đến với lễ hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh, nhu cầu vui chơi giải trí, ngắm phong cảnh và thưởng thức các món ăn đặc sắc nơi đây.
Lễ hội gồm 2 phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ được chuẩn bị rất chu đáo, gồm các lễ vật như mâm xôi, gà, lợn quay, mâm ngũ quả để tổ chức dâng hương cầu khấn xin âm dương, trình Thánh, trình Tiên, cầu cho dân làng được tài lộc, sức khỏe mùa màng bội thu, mọi người đều được an lành, hạnh phúc và xin phép Thánh, Tiên cho dân làng được mở hội an vui trên địa bàn.
Phần hội với nhiều các trò chơi dân gian phong phú, độc đáo thể hiện bản sắc văn hóa riêng của vùng đất này. Các trò chơi như múa sư tử, múa võ dân tộc, tung còn, nhảy bao, hát dân ca, hát Sli, hát Lượn, hát Then diễn ra trong lễ hội.
Ngày hội còn là ngày để mọi người dân phô diện những bộ quần áo dân tộc Tày, Nùng, Dao sặc sỡ với những trang trí hoa văn thật tinh tế do chính bàn tay họ làm ra.
Các hoạt động lễ hội có tính chất cộng đồng cao, sự giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương ái, đoàn kết trong cộng đồng thôn bản được nâng cao rõ rệt. Mọi người đến tham dự lễ hội gặp gỡ nhau làm tăng thêm mối giao lưu tình cảm, đoàn kết tin tưởng lạc quan vào một tương lai tốt đẹp, ước mong có một cuộc sống mạnh khỏe, hạnh phúc, an lành.
Chùa Bắc Nga nằm trên sườn đồi rộng thoai thoải ở vị trí sơn thủy hữu tình, lưng tựa núi, mặt hướng ra quốc lộ 4B và dòng sông Kỳ Cùng trong xanh uốn lượn tạo nên thế “rồng chầu hổ phục” theo thuyết phong thủy. Kiến trúc trong chùa bài trí khá đơn giản, tuy không thật sự bề thế như nhiều ngôi chùa khác nhưng chùa Bắc Nga từ lâu đã nổi tiếng linh thiêng, thu hút rất nhiều du khách thập phương đến tham quan và nguyện cầu, nhất là ngày hội chùa Bắc Nga.
Địa chỉ: thôn Bắc Nga, xã Gia Cát, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn, Việt Nam
Chùa Tân Thanh không chỉ là nơi đáp ứng đời sống tâm linh, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của người dân địa phương mà còn có ý nghĩa lớn trong việc khẳng định chủ quyền, lãnh thổ quốc gia.
Trên khắp dải đất Việt Nam từ biên cương đến nơi hải đảo, ở đâu cũng có những ngôi chùa với nét kiến trúc thuần Việt, thể hiện nền văn hóa đất nước và khát vọng hướng thiện, lòng từ bi theo tinh thần Phật giáo, yêu chuộng hòa bình của nhân dân Việt Nam. Chùa Tân Thanh được hình thành cũng từ chính nguồn mạch ấy.
Được khởi công năm 2015, chùa Tân Thanh gồm 3 khu: điện thờ chính (cung Tam Bảo), điện thờ Đức Thánh Trần, điện thờ Đức Thánh Mẫu và Tam Quan. Trong khuôn viên chùa có trên 100 pho tượng và khoảng 1.000 cây xanh các loại, trong đó gần một nửa là những cây hoa đào bung cánh rực rỡ mỗi dịp Xuân về.
Tọa hướng Đông Bắc - Tây Nam, chùa Tân Thanh nằm trên thế đất đẹp với bên trái có núi hình rồng chầu, bên phải có núi hình voi phục, phía sau thế núi như ngai rồng... Chùa Tân Thanh được dựng trên vùng đất cao nhìn ra cửa khẩu Tân Thanh và cách đường biên giới chỉ khoảng 300 mét. Đây được coi là ngôi chùa sát với đường biên giới nhất của nước ta.
Từ xa nhìn lại, cổng chùa Tân Thanh sừng sững với Tam quan chồng diêm lợp ngói mũi hài, mái đao đầu rồng đặc trưng ở các ngôi chùa Việt truyền thống. Đến chiêm bái chùa, du khách đều nhận thấy nơi đây có rất nhiều điểm nhấn từ kiến trúc thuần Việt đặc sắc, hài hòa với cảnh quan tổng thể, cách trang trí cảnh quan, cách bố trí các khu thờ tự, bài trí trong các điện thờ... Đặc biệt là tất cả câu đối, hoành phi trong chùa đều hoàn toàn là chữ thư pháp Việt.
Bước vào chùa, phía tay phải của du khách là đền thờ Quan Trấn Ải - nơi tưởng nhớ công lao biết bao anh hùng đã hy sinh xương máu để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Trong chùa có bức hoành phi lớn chạm hai câu thơ “Trấn Ải Tân Thanh trung nghĩa lưu sử sách - Non sông Đại Việt trường tồn mãi nghìn thu” như lời nhắc nhở và khẳng định về chủ quyền bờ cõi nước Nam.
Đứng trên hiên chùa nhìn ngược xuống Tam quan, đất trời, núi non và con người dường như hòa làm một. Thoảng trong gió, tiếng chuông chùa vang vọng càng làm cho không gian trong chùa như an yên, mang đến cảm giác thư thái cho Phật tử.
Dù chỉ mới được xây dựng và khánh thành vài năm trở lại đây nhưng chùa Tân Thanh đã thu hút đông đảo du khách thập phương đến chiêm bái, vãn cảnh. Với vẻ tráng lệ cùng kiến trúc thuần Việt, chùa Tân Thanh khiến du khách luôn muốn được ghé thăm, dâng nén tâm nhang cầu nguyện cho quốc thái dân an và gửi gắm ước nguyện biên cương bình yên, giàu mạnh...
Địa chỉ: Khu vực cửa khẩu Tân Thanh, xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam
Chùa Thành Lạng Sơn được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến bởi sự cổ kính, linh thiêng. Đây là điểm du lịch tâm linh rất nổi tiếng tại tỉnh Lạng Sơn nói riêng và miền Bắc nói chung. Chùa Thành (tên chữ là Diên Khánh Tự) là một ngôi cổ tự. Năm 1993, chùa đã được xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia. Hiện nay, chùa là Trụ sở của Ban Đại diện Phật giáo tỉnh.
Chùa do nhân dân quanh vùng lập vào thế kỷ 15, thời Lê sơ (Theo bài viết của Trần Hữu Tính (Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn), thì về chùa Thành được khởi dựng dưới triều Lê Thái Tổ - Lê Lợi). Lúc ấy, chùa có tên là Hương Lâm nhưng vì ở cạnh Đoàn Thành, nên người dân quen gọi là chùa Thành.
Năm 1796, dưới triều vua Cảnh Thịnh, chùa được chuyển về vị trí hiện nay (cách vị trí cũ khoảng 200 mét), tức ở khu vực Bến đá Kỳ Cùng, bên bờ nam sông Kỳ Cùng và cạnh bến đò Thạch Độ (chỗ cầu Kỳ Cùng bây giờ) và lấy tên là Diên Khánh Tự (Diên Khánh có nghĩa là tích thiện để có nhiều phúc cho đời sau). Năm 1846, dưới triều vua Thiệu Trị, chùa đổi tên là Tuần Khánh Tự. Về sau, chùa đổi lại tên cũ là Diên Khánh Tự cho đến ngày nay.
(Thông tin thêm: Căn cứ theo bia di tích dựng tại Bến đá Kỳ Cùng, thì đây chính là nơi đưa đón các đoàn sứ Trung Quốc và Việt Nam trong lịch sử bang giao giữa hai nước từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19.)
Chùa Thành là ngôi chùa cổ bề thế ở tỉnh Lạng Sơn. Tam quan chùa thiết kế theo lối chồng diêm lớp lớp gồm 24 mái, lợp ngói mũi hài và các đầu đao cong vút. Hệ thống mái chùa được chạm đục tỉ mỉ với các đầu phượng đỡ toàn bộ hoành và các kèo. Những linh vật, như: long, ly, quy, phượng...đều được đắp vẽ rất mỹ thuật. Các cột gỗ lim to, cao 9 m, được đặt trên các chân tảng đá xanh và nền chùa lát gạch Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội). Cửa sổ cũng được thiết kế đậm chất Á Đông với ngoài tròn, trong vuông tượng trưng cho âm dương, trời đất. Cánh cửa được tạo tác như một bức tranh tứ bình, tứ quý. Toàn bộ câu đối phía ngoài bằng chữ Hán được ghép bằng sứ hết sức tỉ mỉ, công phu. Chùa gồm 38 gian lớn nhỏ, với nhiều hạng mục công trình: tiền đường, phương đình, bái đường, tổ đường, hậu đường,...
Chùa Thành được trùng tu nhiều lần vào các năm 1796, 1947, 1967, 1980, 1992. Đến năm 2004, chùa lại được đại trùng tu, tạo nên sự bề thế như ngày nay.
Toàn bộ hệ thống tượng thờ (gồm 53 pho tượng lớn, nhỏ) của chùa Thành được đúc bằng đồng nguyên khối. Năm 2007, hệ thống tượng thờ này đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam xác nhận là "Ngôi chùa có hệ thống tượng thờ bằng đồng nguyên khối nhiều nhất Việt Nam".
Bên cạnh đó, các hoành phi, câu đối của chùa cũng được chạm khắc tinh xảo. Nhiều bộ được sơn son thếp vàng và có tuổi hàng trăm năm. Đặc biệt, ở chùa hiện còn lưu giữ quả chuông nặng 600 kg được đúc từ năm Cảnh Trị thứ 9 (1671), dưới triều vua Lê Huyền Tông và tấm bia Diên Khánh tự bi ký (Bài ký bia chùa Diên Khánh) dựng năm 1796, dưới triều vua Cảnh Thịnh. Đây là bia đá hai mặt, khắc văn bia viết bằng chữ Hán, đặt trên lưng rùa, trán bia khắc nổi "lưỡng Long chầu nguyệt", riềm bia khắc hoa văn trang trí.
Ngoài ra, tại tam quan hiện treo một đại hồng chung, do các nghệ nhân đến từ làng Ngũ Xã (Hà Nội) đúc năm 2007. Trọng lượng của quả chuông nặng 2,1 tấn thể hiện ý nghĩa cầu cho nước Việt Nam ở thế kỷ 21, được thịnh vượng và quốc thái dân an.
Địa chỉ: Số 3 đường Hùng Vương, phường Chi Lăng, Thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam
Điện thoại: 0205 3508 366
Website: https://chuathanhlangson.com/
Động Nhị Thanh – Chùa Tam Giáo là một điểm di tích nằm trong quần thể di tích danh thắng Nhị-Tam Thanh – Núi Tô Thị – Thành Nhà Mạc, động Nhị Thanh cách ngã 6 Pò Soài khoảng 200m, đi theo đường Nhị Thanh.
Động Nhị Thanh được danh nhân Ngô Thì Sỹ khám phá và tôn tạo khi ông làm Quan Đốc Trấn Lạng Sơn từ năm 1777 – 1780. Ông đã có công lao to lớn trong việc mở mang ruộng đất, yên ổn dân sinh và xây dựng Lạng Sơn thành khu thương mại sầm uất. Trong thời gian ngao du sơn thuỷ trong vùng Ông đã phát hiện ra động Nhị Thanh và cho hưng công xây dựng chùa Tam Giáo, Đình duyệt Quân, Thạch Miên Am, Thụy Tuyền Hiên, Trai Táo. Ngô Thì Sỹ là người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây cũ. Khi đỗ đạt làm Quan, để tưởng nhớ đến quê hương, Ông đã dùng hai chữ Thanh của quê hương đặt cho tên hiệu của mình là: Nhị Thanh cư sĩ và sau này khi phát hiện ra động Nhị Thanh, Ông đã dùng chính tên hiệu của mình đặt tên cho động là Động Nhị Thanh.
Phía bên phải động Nhị Thanh là Chùa Tam Giáo được Ngô Thì Sỹ hưng công xây dựng năm Kỷ Hợi (1779) thờ Nho Giáo, Đạo Giáo và Phật Giáo (tam giáo đồng nguyên). Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Công Đồng, Cung Tam Tòa Thánh Mẫu, Cung Sơn Trang, Cung Tam Bảo… với hệ thống tượng thờ khá phong phú.
Bên trái chùa Tam Giáo là đường vào động Nhị Thanh, nơi có suối Ngọc Tuyền trong vắt chảy xuyên lòng động với độ dài khoảng 600m, phần đọng lại trước cửa động tạo thành Ao Nhất Bích thơ mộng.
Đỉnh vòm động Nhị Thanh là bức tượng danh nhân Ngô Thì Sỹ được tạc vào vách đá tựa như đang vãn cảnh. Trên vách đá của động là hệ thống bia Ma Nhai lưu bút tích của các thế hệ danh nhân với nội dung chủ yếu là ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên và con người Xứ Lạng, ghi lại việc phát hiện tạo dựng động Nhị Thanh và chùa Tam Giáo của các bậc tiền nhân. Đi thêm khoảng 100m, qua 2 chiếc cầu bắc qua những khúc suối quanh co đã mở ra một không gian rộng lớn với nóc hang cao vút, có một thác nước đổ xuống theo khe đá hoà nhập cùng với suối Ngọc Tuyền chảy ngầm dưới nền động tạo nên những âm thanh huyền bí. Ở đây còn có một khoảng đất rộng gọi là “sân khấu”, có ánh sáng từ cửa Thông Thiên rọi chiếu thật huyền ảo. Tại “sân khấu” này, xưa kia Ngô Thì Sĩ đã từng mở tiệc thết đãi và thưởng thức các chương trình thơ ca, đàn hát…Đi tiếp vào trong, sẽ đến “vườn thạch nhũ” với nhiều cột đá đứng bên mép suối đỡ lấy trần hang, nhiều nhũ đá rủ, mầm đá cao thấp như những bức rèm lớn vắt lên hai bên thành động, tạo nên cảnh sắc thiên nhiên kỳ vĩ. Đi sâu vào động, qua 3 cây cầu là đến cổng sau thông ra bên ngoài. Từ cửa sau của động Nhị Thanh, du khách có thể quan sát thấy cửa động Tam Thanh có đường đi bộ từ cổng sau Nhị Thanh sang động Tam Thanh với khoảng cách là 500m.
Là một danh thắng thiên tạo kỳ vĩ cùng với chùa Tam Giáo linh thiêng và hệ thống bia ma nhai phong phú, hy vọng động Nhị Thanh sẽ thỏa mãn nhu cầu vãn cảnh, nhu cầu tâm linh và nghiên cứu khoa học của đông đảo các tầng lớp nhân dân và du khách thập phương.
Có thể nói chùa Tam Giáo là một ngôi chùa độc đáo về kiến trúc. Chùa mang đến giá trị văn hóa tinh thần và là một trong tám cảnh đẹp của xứ Lạng. Đặc biệt, nơi đây cùng lúc thờ ba tôn giáo là Nho – Phật – Đạo. Sở dĩ nói “đồng nguyên” là bởi mục tiêu tối thượng của cả ba tôn giáo này đều hướng tới tính thiện, nhân văn. Đó là: xã hội Nho – tâm linh Phật – thiên nhiên Đạo.
Ngày nay, tại di tích này còn có hệ thống văn bia tạc trên vách đá của các danh nhân, thi sĩ các thời kỳ viếng thăm chùa lưu lại. Đây là nguồn sử liệu cùng những tác phẩm văn học hết sức quý giá.
Lễ hội khu di tích Nhị Thanh – chùa Tam Giáo diễn ra từ ngày 15 đến 17–1 hàng năm với nhiều nghi lễ tập tục truyền thống đặc sắc của nhân dân xứ Lạng. Nằm trong khu di tích này, chùa Tam Giáo – động Nhị Thanh đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng Di tích văn hóa vào năm 1962.
Địa chỉ: 52 Đ. Nhị Thanh, Tam Thanh, Thành phố Lạng Sơn, Lạng Sơn, Việt Nam
Đền Kỳ Cùng (còn có tên là đền Quan Lớn Tuần Tranh) nằm bên tả ngạn sông Kỳ Cùng và ở ngay đầu cầu Kỳ Cùng; hiện thuộc địa phận phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam. Năm 1993, ngôi đền đã được xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia.
Đền Kỳ Cùng luôn là cái tên thường được nhắc đến khi người ta nói về văn hoá tín ngưỡng của xứ Lạng. Khi đến đây bạn sẽ có cơ hội được cảm nhận đời sống tâm linh, phong phú cũng nhưng hiểu thêm về bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam ta.
Đền Kỳ Cùng (còn gọi đền Quan Lớn Tuần Tranh) nằm ngay đầu cầu bên tả ngạn sông Kỳ Cùng, thuộc phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Ban đầu chỉ là ngôi đền nhỏ thờ thủy thần Giao Long cai quản cho toàn vùng quanh năm mưa thuận, gió hòa, nhân dân yên ổn làm ăn. Đền rất thiêng, nhiều lần được các triều vua Lê, Nguyễn ban sắc phong; mỗi khi sứ bộ qua đây đều sửa lễ cáo yết rồi mới tiếp tục lộ trình qua biên giới.
Quá trình biến đổi của lịch sử, đền nay thờ Quan Lớn Tuần Tranh, vị quan thứ năm trong Ngũ vị Tôn quan thời nhà Trần được cử lên trấn ải biên thùy. Truyền thuyết xưa kể lại: Một lần phải chiến đấu với giặc ngoại xâm, quân lính của ông ốm đau nhiều, lực lượng yếu mỏng. Nhân dịp này, một số gian thần dâng sớ vu oan cho ông tư thông với giặc phản quốc cầu vinh. Đức vua nghe lời nịnh thần, ban án tử hình ông.
Để chứng minh lòng trong sạch, ông trẫm mình xuống sông tự vẫn. Sau này, Tả Đô đốc Hán Quận công Thân Công Tài lên nhậm chức ở Lạng Sơn hiểu rõ sự tình, đã dâng sớ minh oan cho ông. Trong đền còn phối thờ Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và Tam tòa Thánh Mẫu.
Do tấm lòng trong sạch ông Tuần Tranh đã được thần linh hóa thành đôi rắn ông Cộc - ông Dài trở thành vị thần ngự tại tại sông này. Tích kể rằng ông đã nhiều lần hiển linh thay dân trừ hại cái ác bảo vệ cuộc sống an bình. Được người đời biết ơn lập đền thờ phụng. Theo sử sách ghi lại, ngày xưa bất kỳ cuộc hành quân nào các sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc cũng đều dừng chân tại đây sửa soạn lễ vật, quần áo thắm nắn nhan cầu cho chuyến đi bình anh công thành danh toại.
Tấm bia lưu giữ tại đền cho biết: Đền xưa làm bằng đất, lợp ngói, được trùng tu vào những năm 1928, 1931, 1967. Sau đó, do thiên tai và chiến tranh tàn phá, ngôi đền không còn, nhân dân quanh vùng xây lại đền thờ trên nền cũ có sự pha trộn giữa kiến trúc truyền thống và hiện đại; nhiều đồ thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng được làm mới.
Đền quay về hướng Nam, kiến trúc kiểu chữ đinh, ẩn mình dưới lùm cây cổ thụ xanh mát soi bóng sông Kỳ Cùng lung linh tạo cảm giác thanh tịnh, thư thái tâm hồn. Phía trước đền là bến nước đẹp tạo bởi hàng trăm bậc đá từ sân đền xuống lòng sông. Trong khoảng sân lát gạch rộng sạch bố trí hai cây hương và đỉnh đá.
Phía trên cổng và mái đền đắp nổi lưỡng long chầu nguyệt, ngoài sân cặp rồng chầu nguyệt bằng đá uyển chuyển mềm mại khẳng định sự tài hoa của bàn tay nghệ nhân chạm khắc. Không gian chính nghinh môn gồm ba cửa vòm cuốn; trên mái hai trụ gạch vuông chồng diêm với bốn ô cửa tròn thanh thoát, phía trên đắp nổi hoa văn, trên cùng là bộ tam khí gồm đỉnh và lọ hoa.
Hai cặp rồng, một cặp sư tử đá chầu trước cửa tăng vẻ thâm nghiêm cho đền. Phía ngoài có hai tháp chuông và trống xây chồng diêm, tám mái với những đầu đao cong vút. Trong đền còn lưu giữ được một số hoành phi, đại tự có niên đại từ thời Lê, Nguyễn cùng ngai, tán, lọng, đỉnh, đôi hạc đồng và các pho tượng cổ có giá trị mĩ thuật cao.
Hằng năm, lễ hội chính của đền được tổ chức từ ngày 22 - 27 tháng Giêng âm lịch.
Năm 1993, đền Kỳ Cùng được công nhận là di sản lịch sử cấp quốc gia. Đền nằm bên bờ đá tả ngạn con sông Kỳ Cùng. Khúc sông này có nhiều tảng đá lớn nhấp nhô ẩn hiện, chặn dòng nước bị sóng đập vào tung bọt trắng xóa trông vô cùng ngoạn mục. Nhờ đó trở thành một trong tám cảnh đẹp của xứ Lạng được ghi trong “Trấn Doanh Bát Cảnh” mà Ngô Thì Sỹ gọi là Kỳ Cùng Thạch Độ.
Kiến trúc đền mang đậm văn hoá tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Trên cổng và mái đền cong vút là cặp Lưỡng Long Chầu Nguyệt. Trước cửa có cặp sư tử đá uy nghiêm, phía ngoài điện là hai tháp chuông. Ngoài ra đèn còn lưu giữ bức hoàng phi, tự đại có niên đại từ thờ nhà Lê, nhà Nguyễn.
Từ ngày 22-27 tháng Giêng âm lịch lễ hội Kỳ Cùng - Tả Phủ được tổ chức. Là dịp cho người dân hội tụ, vui chơi, ca hát thực hiện các nghi lễ cầu phúc, cầu mong một năm an lành phát đạt. Đây được xem là một trong những lễ hội lớn nhộp nhip, điểm hình nhất của người dân Lạng Sơn. Theo tích, ông Tuần Tranh vì bị đỗ oan phải thả mình xuống sông để chứng minh trong sạch. Được Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài nhà Lê hóa giải. Vì vậy có tục lệ vào ngày lễ hội đền Kỳ Cùng giống như đền Tả Phủ, phải có lễ rước kiệu ông lớn Tuần Tranh lên đền Tả Phủ để tạ ơn và hầu chuyện Thân Công Tài.
Trong thi ca có câu “Đồng Văn có phố kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh..” Chợ Kỳ Lừa là khu mua sắm sầm uất nhất nằm ở trung tâm thành phố Lạng Sơn. Trải qua hàng trăm năm lịch sử phiên chợ nổi tiếng này đã đi vào thi ca. Đây là nơi giao lưu văn hoá của các đồng bào dân tộc ít người, đến đây bạn không chỉ có thể mua cho mình những món đặc sản nổi tiếng mà còn có thể tìm hiểu thêm những nét văn hoá độc đáo nơi đây.
Địa chỉ: Vĩnh Trại, Thành phố Lạng Sơn, Lạng Sơn, Việt Nam
Đền Tả Phủ là ngôi đền nằm ở phố chợ Kỳ Lừa, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn. Đền được phục dựng lại năm 1991 và có hướng cửa chính nhìn thẳng về hướng Tây, nằm trên thế đất cao. Khi nhìn từ xa, bạn sẽ thấy ngôi đền toát ra vẻ uy nghi, linh thiêng. Ngôi đền được xây dựng theo kiến trúc gồm 2 tòa, kết cấu theo lối chữ công.
Trong số những điểm tâm linh nổi tiếng tại Xứ Lạng không thể không nhắc tới di tích đền Tả Phủ thờ Hán quận công Thân Công Tài. Ghi nhớ công lao tiền nhân, những năm qua, chính quyền và Nhân dân phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn đã có nhiều giải pháp tích cực góp phần bảo tồn, phát huy giá trị ngôi đền cho hậu thế…
Đền Tả Phủ nằm ở trung tâm phố chợ Kỳ Lừa thuộc phường Hoàng Văn Thụ được xây từ năm Chính Hòa thứ 4 (1683) thờ Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài và được xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1993.
Theo văn bia lưu giữ tại đền, ngôi đền này được Nhân dân 7 phường chợ ở Đoàn Thành Lạng Sơn cùng với 13 phường buôn Trung Quốc cùng nhau xây dựng vào năm 1683. Đền Tả Phủ (Tả Phủ Linh từ) có kiến trúc gồm 2 tòa, theo lối chữ Công, hướng chính quay về phía Tây. Đền thờ Tả đô đốc, Hán quận công Thân Công Tài, người có công trong việc mở mang phố chợ Kỳ Lừa, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống Nhân dân các dân tộc Lạng Sơn.
Hán quận công Thân Công Tài là người xã Như Thiết, huyện Yên Dũng phủ Lạng Giang, nay là thôn Như Thiết, xã Hồng Thái huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Xuất thân trong một dòng họ quý tộc có học, nhiều đời làm quan. Ông được trọng dụng, bổ nhiệm lên Lạng Sơn làm Phó tướng nhận chức Đô đốc Đồng tri giúp việc trấn giữ biên thùy. Trong những năm làm quan ở Lạng Sơn, ngoài việc chăm lo phòng thủ đoàn thành, giữ gìn biên ải, Thân Công Tài đã nhận thấy tầm quan trọng cũng như vị trí thuận lợi trong việc mở mang thương trường giao lưu buôn bán của Lạng Sơn và chính ông là người khởi xướng trong công cuộc này.
Nhân dân ở đây vẫn truyền tụng rằng, ông là người có công san đồi, bạt đất mở mang thành 7 con đường và lập nên 7 phường cho phố chợ Kỳ Lừa, tạo cho trấn lỵ Lạng Sơn một khu buôn bán phồn vinh, tấp nập, giúp cho dân chúng trao đổi hàng hóa thông thương xuôi ngược và qua lại biên giới. Nhờ đó mà 1 vùng đồi gò hoang vu rậm rạp, dân cư thưa thớt ở mạn Bắc Đoàn thành đã nhanh chóng trở thành 1 điểm quần cư của nhiều dân tộc, 1 cửa ngõ buôn bán sầm uất thu hút cả thương nhân ngoại quốc vào kinh doanh. Và cũng nhờ đó mà người đời sau được biết đến phố chợ Kỳ Lừa, một địa danh mà sau này trở nên nổi tiếng ở vùng ải bắc.
Đền Tả Phủ có cửa chính quay về hướng Tây, nằm trên thế đất cao tạo nên vẻ uy nghi, linh thiêng với kiến trúc gồm 2 tòa, kết cấu theo lối chữ Công. Nối liền giữa hai tòa là một khoảng sân nhỏ có tấm bia đá tạo dựng năm Quý Hợi, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (năm 1683); bia có tiêu đề “Tôn sư phụ bi” (bia ghi việc tôn thờ người làm thầy, làm cha), ghi tạc công lao của Thân Công Tài với Lạng Sơn và việc mở mang thương trường buôn bán tại đây.
Ngoài ý nghĩa lịch sử về lưu niệm danh nhân lịch sử Thân Công Tài, nơi đây còn là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân. Du khách thập phương nhớ đến xứ Lạng không thể không nhớ đến một lễ hội xuân lớn ngay giữa chợ Kỳ Lừa, đó là lễ hội đền Tả Phủ - Kỳ Lừa được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 27 tháng giêng hàng năm. Một lễ hội có quy mô lớn được nhân dân các dân tộc thành phố Lạng Sơn và du khách gần xa thành kính dâng hương tưởng nhớ Hán Quận Công Thân Công Tài và cầu cho “Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, kinh doanh buôn bán phát lộc, phát tài”.
Hiện nay, đền Tả Phủ còn lưu giữ được một số di vật quý như: tấm đại tự cổ “Hoài Đức hàm ninh”; tấm bia “Tôn sư phụ bi” tạo dựng năm Qúy Hợi, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 năm 1683… Năm 1993, đền Tả Phủ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp Quốc gia. Lễ hội của đền được tổ chức từ ngày 22 đến 27 tháng Giêng hằng năm, thu hút đông đảo du khách tham dự đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia vào năm 2015.
Địa chỉ: Trần Quốc Toản, Hoàng Văn Thụ, Tp. Lạng Sơn, Lạng Sơn, Việt Nam
Điện thoại: 0977255144
Đền Mẫu Đồng Đăng Lạng Sơn nằm ở trung tâm thị trấn Đồng Đăng thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, cách cửa khẩu Hữu Nghị 4km. Chùa Mẫu Lạng Sơn là nơi người dân các dân tộc trong tỉnh và du khách trong nước đến để thờ cúng, sinh hoạt văn hóa tâm linh, nguyện cầu sự che chở của các đấng linh thiêng cho cuộc sống ngày càng ấm no, từ đó gắn kết tinh thần cộng đồng.
Đền Mẫu Đồng Đăng trước đây nằm trong một mái đá sát chân núi (cách vị trí đền ngày nay khoảng hơn 300m về phía đông bắc), hiện tại ở vị trí này còn có một bia ma nhai, kích thước: 53cm x 80cm, cạnh đó có một nghiêm mực đá được chạm khắc vào tháng sáu năm Kỷ Tỵ, triều Gia Long thứ 8 (1809). Sau này, thấy nơi đây chật hẹp không mấy thuận tiện cho việc thờ cúng, nhân dân địa phương đã di chuyển nơi thờ tự đến vị trí hiện nay. Đây là nơi thờ tự tín ngưỡng thánh Mẫu và Phật theo kiểu “Tiền Thánh - Hậu Phật”.
Đền Mẫu Đồng Đăng là nơi thờ tự tín ngưỡng Thánh Mẫu và các đức Phật theo kiểu Tiền Thánh Hậu Phật (nghĩa là phước trước thờ thánh, phía sau thờ Phật). Ngoài những vị Phật được thờ phượng tương tự như những ngôi chùa, Đền Mẫu Đồng Đăng còn có thờ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Xung quanh Thánh Mẫu Liễu Hạnh có rất nhiều câu chuyện linh thiêng và huyền bí. Cùng với Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được người đời xưng là một trong Tứ Bất Tử của tín ngưỡng và văn hóa Việt Nam. Bà cũng là vị thánh nữ duy nhất được phong là một trong bốn vị thánh bất tử.
Tương truyền, Đền Mẫu Đồng Đăng chính là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Trạng Bùng và Mẫu Liễu Hạnh. Câu chuyện này có nhiều tình tiết kỳ bí và đến nay vẫn là một giai thoại hấp dẫn xoay quanh Đền Mẫu Đồng Đăng.
Theo lời kể lại, Ngọc Hoàng có một cô con gái tên là Quỳnh Hoa thường xuyên hiển linh để giúp đỡ con người vượt qua hoạn nạn. Để ghi nhớ công ơn, nhà Hậu Lê đã sắc phong bà là Thượng Đẳng Phúc thần và Công chúa Liễu Hạnh.
Vào một ngày du ngoạn xứ Lạng, Công chúa Liễu Hạnh đã thấy một ngôi chùa bỏ hoang trong rừng rậm. Trong lần gặp gỡ với Trạng Bùng, bà đã nhắc nhở ông về việc tu sửa ngôi chùa để có điểm hương khói cho các đức Phật.
Trạng Bùng cùng các bô lão trong làng quyết định tu sửa ngôi chùa theo lời của Mẫu Liễu Hạnh. Từ đó, Đền Mẫu Đồng Đăng được ra đời và trở thành nơi hương khói cho các tín đồ văn hóa và tôn giáo đến chiêm bái cho đến ngày nay.
Đền Mẫu Đồng Đăng là ngôi đền lớn có giá trị về kiến trúc, tín ngưỡng - tôn giáo và lịch sử; là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh thu hút đông đảo nhân dân trong tỉnh, du khách trong nước và quốc tế, nhất là dịp lễ hội được tổ chức vào ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm.
Đền Mẫu Đồng Đăng có không gian kiến trúc ấn tượng cũng những khoảng xanh đan xen nhau tạo nên màu sắc ấn tượng và dễ chịu. Khuôn viên đền có những tòa tháp lớn tạo nên vẻ đẹp uy nghiêm và tráng lệ.
Khu vực thờ tự của Đền Mẫu Đồng Đăng được chia làm 5 gian với cách bố trí gọn gàng và chi tiết như sau:
Bên trong khu vực thờ tự được gọi là tam bảo. Tại đây có thờ Quan Thế m Bồ Tát và Đức Chuẩn Đề Bồ Tát.
Bên ngoài khu vực thờ tự thờ tam tòa thánh mẫu, bao gồm Mẫu đệ nhất Thượng Thiên, Mẫu đệ nhị Thượng Ngàn, Mẫu đệ tam Thoải Phủ.
Chánh điện có gian thờ Chúa Liễu, hai bên còn có Chầu Lục và Chầu Bơ. Gian bên phải thờ Sơn Trang gồm Chầu Chín và Chầu Mười Đồng mỏ. Gian bên trái có thờ Chầu Đệ Tứ Khâm Sai cùng nhiều thánh cô, thánh cậu và Triều Đức Đại Vương.
Ngoài ra, đền còn có cổng tam quan được xây dựng theo hình vòm cuốn với nhiều hoạt tiets và hoa văn đặc biệt. Bên trong sân cỏ của đền có thờ hai chú voi ở ngay lối đi vào đền. Phía sau sân cỏ là lối vào bảo tháp với lối đi chỉ mở vào những ngày tổ chức lễ hội.
Tại Lạng Sơn có Lễ hội Đền Mẫu Đồng Đăng được diễn ra vào ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm. Trong lễ hội có nhiều hoạt động thú vị như múa sư tử, múa võ dân tộc hoặc thi đấu thể dục thể thao. Hoạt động lễ hội này khiến cho Đền Mẫu Đồng Đăng trong thời điểm này càng trở nên náo nhiệt hơn, thu hút nhiều tín đồ du lịch đến đây tìm hiểu và khám phá.
Tại Lễ hội Đền Mẫu Đồng Đăng, bạn sẽ có cơ hội thưởng thức những nét đẹp văn hóa dân tộc qua các món ngon tại đây như lợn quay, vịt quay, phở chua, khâu nhục, mía. Nếu bạn là tín đồ của những món ngon này và muốn tìm hiểu thêm về dấu ấn của văn hóa Thờ Mẫu độc đáo tại đây, đừng ngần ngại mà ghé quan Đền Mẫu Đồng Đăng vào dịp lễ hội.
Đến với đền Mẫu Đồng Đăng, du khách có thể kết hợp tham quan cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị và thoải mái mua sắm trong khu chợ sầm uất của thị trấn Đồng Đăng.
Địa chỉ: 61 Hoàng Văn Thụ, TT. Đồng Đăng, Cao Lộc, Lạng Sơn, Việt Nam
Đền Bắc Lệ là một quần thể di tích nằm trên một quả đồi giữa khu Nam của Thôn Bắc Lệ, thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Đền được người dân quan niệm như là di tích thờ Mẫu Thượng Ngàn - bà chúa cai quản rừng xanh. Với những giá trị lịch sử, tín ngưỡng và kiến trúc, đền Bắc Lệ được Nhà nước công nhận di tích lịch sử, văn hóa năm 1992.
Hiện nay vẫn chưa xác định được chính xác thời gian ra đời của một ngôi đền, song căn cứ vào hai văn bia còn (1919 và 1932) đền Bắc Lệ từ đầu thế kỷ XX đến nay đã trải qua 5 lần tu sửa tôn tạo. Theo văn bia khắc năm Khải Định thứ 4 (1919) thì trước đó đền chỉ là một am thờ nhỏ, hay bị hỏa hoạn, sau đó nhân dân đã cung tiến xây dựng thành một ngôi nhà 3 gian gồm 3 cung: Đệ Nhất - Đệ Nhị - Đệ Tam (cung cấm) ngôi đền mang bóng dáng nghệ thuật kiến trúc điêu khắc Trung quốc. Trong đợt sửa chữa lần 2 (1933) và lần 3 (1940) ngôi nhà 3 gian cũ được quay lại và xay thêm cung Đệ Tam ở phía sau. Một cổng Tam quan to cao được xây dựng ở phía ngoài Tam cấp lên đền. Sau đó do các điều kiện, nguyên nhân khác đền Bắc Lệ còn qua một số lần sửa chữa.
Trong tâm thức người dân Xứ Lạng, đền Bắc Lệ thờ phụng Mẫu Thượng Ngàn, thường được quan niệm là Mẫu Đệ Nhị trong Tam tòa Thánh Mẫu. Bà sáng tạo và cai quản tất cả mọi vùng rừng núi. Có truyền thuyết nói về sự ra đời của đền Bắc Lệ rằng: La Bình là con gái của Tản Viên và Mỵ Nương - người con gái đẹp nết, đẹp người và có đủ tài đức nên được Tản Viên rất yêu quý nên thường cho nàng đi săn bắn cùng. Đi đến đâu nàng cũng quyến luyến với núi non, rừng rậm, thấy vậy Trời ban cho nàng là “Nữ chúa rừng xanh”. Vào thời kỳ đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, do lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, lại thêm nghĩa quân Lam Sơn đóng quân vào thế bất lợi nên việc chiến thắng là khó khăn. Thấy vậy, nữ chúa đã giúp đỡ rất nhiều cho nghĩa quân. Sau này, nhớ đến công lao của “Nữ chúa rừng xanh” Nhân dân cả nước đã tôn sùng là Mẹ (Mẫu nghi thiên hạ) và lập đền thờ ở khắp nơi. Đền Bắc Lệ được dựng lên trên cơ sở sự tích đó.
Ngoài ra, đền Bắc Lệ còn tôn thờ Chầu Bé, theo dân gian Chầu Bé là một nhân vật có thật từng sống trong vùng, có thể thay mặt Đức Mẫu thực hiện và đáp ứng những lời nguyện cầu của người dân.
Xuất phát từ niềm tin truyền thống của nhiều thế hệ về sự linh ứng của các thần linh được thờ phụng ở đền Bắc Lệ nên tại đây đã diễn ra nhiều sinh hoạt lễ hội, thu hút một số lượng đông đảo người tham dự. Lễ hội đền Bắc Lệ được tổ chức hằng năm vào ngày 20/9 Âm lịch với các hoạt động mang đậm nét văn hóa tâm linh như lễ rước cô Bơ Bắc Lệ từ đền Kẻng lên đền Bắc Lệ (cô Bơ đến hầu Đức Mẫu Thượng Ngàn), các nghi thức thờ cúng Mẫu, nguyện cầu, lên giá đồng... Đền Bắc Lệ có năm ngày lễ lớn trong năm thu hút được đông đảo khách thập phương nhất. Đó là:
Cũng giống như nhiều ngôi đền thờ Mẫu khác, đền Bắc Lệ thờ công đồng, tứ phủ, thờ tất cả các vị thần linh ở bốn miền vũ trụ. Điều đặc biệt ở đền Bắc Lệ coi trọng các vị thần linh gắn với địa phương như Mẫu Thượng Ngàn, Chầu Bé, Cô Bé… những vị thần cung cấp ban phát của cải nơi núi rừng cho con người. Những vị thần đã trở thành biểu tượng của sự sống vĩnh hằng. Chầu Bé theo quan niệm của người dân ở đây, vốn là người có thật, quê quán ở Bắc Lệ. Tại đây, Chầu Bé có thể thay Mẫu để thực hiện các ý đồ sáng tạo của các Mẫu. Bên cạnh Mẫu còn có các thần linh hóa thân của Mẫu như Ngũ vị tôn ông, Tứ phủ Chầu Bà, Tứ phủ Quan Hoàn, Cô, Cậu… được thể hiện qua các bài tích. Vì thế, có thể nói, đền Bắc Lệ giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của Nhân dân trong vùng, là ngôi đền nổi tiếng ở tỉnh Lạng Sơn, có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa của Nhân dân.
Với những giá trị lịch sử, tín ngưỡng và kiến trúc, đền Bắc Lệ ngày càng thu hút nhiều du khách trong tỉnh và các địa phương khác trong cả nước đến hành lễ và tham quan.
Địa chỉ: Thôn Bắc Lệ, thuộc xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam
Tổng hợp từ Internet.