Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước
Từ ngày 01/07/2025, ba tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hòa Bình chính thức hợp nhất thành Tỉnh Phú Thọ mới, với trung tâm chính trị – hành chính đặt tại thành phố Việt Trì. Đây không chỉ là bước ngoặt hành chính – phát triển vùng trung du Bắc Bộ, mà còn là sự giao thoa, hội tụ của những giá trị văn hóa – tâm linh đặc sắc. Bài viết này sẽ đưa bạn đến hành trình khám phá những ngôi chùa tiêu biểu nhất vùng hợp nhất – nơi đạo và đời song hành, nơi bản sắc văn hóa Việt lắng sâu trong tiếng chuông ngân vang giữa núi non xanh thẳm.
Dọc theo những dãy núi trùng điệp và dòng sông hiền hòa, những ngôi chùa cổ kính và danh lam Phật giáo nổi tiếng đã hiện diện từ lâu, là nơi người dân gửi gắm niềm tin, lòng thành và khát vọng bình an.
Tại Phú Thọ, nổi bật có Chùa Thiên Quang, Chùa Cát Tường, Chùa Bồng Lai, và Chùa Phổ Quang… những địa điểm gắn với huyền tích Hùng Vương và dòng chảy văn hóa Lạc Việt.
Vĩnh Phúc ghi dấu với Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, Chùa Hà Tiên, Chùa Tích Sơn, và Chùa Vàng Tam Đảo... nơi thiền – tịnh – tự nhiên hòa quyện.
Còn Hòa Bình tự hào với Chùa Phật Quang, Chùa Hang (Thanh Lam Tự), Chùa Tiên (Lạc Thủy), Chùa Hòa Bình Phật Quốc – trung tâm Phật giáo mang quy mô lớn và kiến trúc hiện đại bậc nhất miền Bắc.
Chùa Thiên Quang, hay còn được gọi là Thiên Quang Thiền Tự, vị trí của nó đặt tại Khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng, phía Tây Bắc thành phố Việt Trì, trong xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Trong Khu di tích lịch sử văn hóa Đền Hùng, nơi này đứng gần đền Hạ, cùng với đền Trung (Hùng Vương tổ miếu), đền Thượng (Kính Thiên Lĩnh điện, Cửu Trùng Tiên điện), và đền Giếng, cũng như lăng mộ của vua Hùng.
Tên gọi ban đầu của chùa là Viễn Sơn Cổ Tự, nhưng sau này được đổi thành Thiên Quang Thiền Tự. Chùa này là một trong những công trình thuộc hệ phái Bắc tông.
Lịch sử xây dựng của chùa Thiên Quang gắn liền với thời kỳ Lê Trung Hưng. Tam quan của chùa được thiết kế theo kiểu ba gian hai chái, mô phỏng chồng giường, thể hiện rõ nét mỹ thuật thời Hậu Lê. Đặc biệt, chùa có một chiếc chuông cổ, và trước sân chùa là một cây vạn tuế ba cành, đã tồn tại hơn 700 năm.
Trong chùa, Điện Phật được trang nghiêm với sự hiện diện của các tượng Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Thích Ca Tam Tôn, Quan Thế Âm, Hộ Pháp và nhiều vị Phật khác.
Tháng 9 năm 1954, khi về thăm Đền Hùng, tại chùa Thiên Quang, Bác Hồ đã ngồi nghỉ bên gốc cây thiên tuế, sau đó, gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ và chiến sỹ Đại đoàn Quân Tiên phong chuẩn bị về tiếp quản thủ đô Hà Nội với Iời căn dặn:
Chùa làm theo kiểu “nội công ngoại quốc” gồm các nhà: Tiền đường, thiêu hương, tam bảo, ở phía trước là dãy hành lang, nhà Tổ ở phía sau. Trước sân chùa có hai tháp sư hình trụ 4 tầng; một gác chuông được xây dựng vào thế kỷ XVII gồm ba gian, hai tầng mái. Trên gác chuông có treo quả chuông đúc vào thời Hậu Lê.
Chùa thờ Phật theo phái Đại Thừa. Trong chùa có trên 30 pho tượng: Tam thế, A Di Đà, Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Tống Tử, Đức Thánh Hiền, Hộ pháp… được bài trí trang nghiêm.
Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ, 4 tầng. Lòng tháp xây rồng, đỉnh đắp hoa sen. Trong tháp có bát hương và một tấm bia đá (0,3m x 0,5m) nội dung ghi về các vị Hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại đây. Gác chuông còn được gọi là Tam quan (cổng chùa) nằm thẳng trước cổng chùa. Được xây dựng vào thế kỷ XVII, gồm 3 gian, 2 tầng mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng gường kết hợp với bẩy kẻ. Đây là công trình kiến trúc cổ duy nhất còn tồn tại trong Khu di tích lịch sử Đền Hùng.
Địa chỉ: núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam
Chùa Cát Tường - Chùa Cát Tường Tp Việt Trì là một địa điểm tâm linh tại Thành phố Việt Trì (Tỉnh Phú Thọ thuộc vùng Đông Bắc Bộ). Cách trung tâm Tỉnh Phú Thọ khoảng 8km. Chùa Cát Tường tọa lạc tại phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Trải qua mấy chục năm xây dựng ngôi chùa vẫn sừng sững nghiêng mình xuống dòng sông Hồng thơ mộng, hữu tình.
Chùa Cát Tường nằm tại phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Với hơn mấy chục năm tồn tại, ngôi chùa vẫn hiên ngang, thanh thoát bên bờ dòng sông Hồng thơ mộng và ý nghĩa.
Xây dựng lại từ năm 1999, chùa Cát Tường nằm gần đền Cát Tiên. Trải qua nhiều năm, năm 2016 – 2017, chùa đã trải qua quá trình trùng tu lớn và được bổ sung nhiều công trình mới. Như mọi ngôi chùa khác, nơi đây tôn vinh Phật A Di Đà, Phật A Di Lặc, Quan Thế Âm Bồ Tát và các vị phật khác.
Chiêm ngưỡng chùa Cát Tường bạn sẽ vô cùng ngỡ ngàng trước sự hoành tráng, đồ sộ của nó. Tổng diện tích của chùa là 7.000m2 bao gồm nhà tam bảo, nhà tổ, nhà tăng, nhà chay đường, nhà khách…. Thiết kế chùa theo kiểu truyền thống Phương Đông với những căn nhà cao tầng mang dáng dấp của cung đình.
Chùa Cát Tường Tp Việt Trì Phần móng của chùa rất cao và chắc chắn. Bạn phải đi qua nhiều bậc cấp thì mới tới những khu vực chính của chùa. Tất cả các hạng mục đều được làm từ hai đến ba tầng. Đi vào bên trong ấn tượng nhất là hệ thống cột gỗ một người ôm không xuể.
Cửa chính đến phần mái đều được làm từ gỗ. Ấn tượng trong kiến trúc chùa Cát Tường là hệ thống cột đá bên ngoài được chạm trổ rồng mây rất sắc sảo. Ngoài ra những chi tiết trang trí cũng được khắc chạm rất tỉ mỉ. Tất cả mang đến một không gian cổ kính, linh thiêng và rất sang trọng, ấm cúng.
Chùa Cát Tường là nơi diễn ra nhiều hoạt động ý nghĩa. Phật tử và du khách gần xa khi tới không gian này thì bao muộn phiền, lo toan đều tan biến. Hàng năm ngày lễ Vu Lan báo hiếu, ngày vía đức Từ Phụ A Dì Đà, lễ Phật Đản… được sư trụ trì quan tâm, tổ chức long trọng và ấm cúng. Ngoài ra hàng tháng các sư còn dẫn phật tử tham quan và chiêm bái một số địa danh nổi tiếng.
Địa chỉ: đường Lạc Long Quân, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam
Chùa Bồng Lai thuộc thôn Hà Thạch, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ còn có tên gọi: Chùa Hà Thạch. Tên chữ: “Bồng Lai tự” có từ khi mới khởi dựng và “Bồng Lai thiên tạo” là tên gọi trong dân gian từ lần trùng tu thời Lê Cảnh Hưng (1740-1876).
Truyền thuyết dân gian cho rằng chùa Bồng Lai được làm vào đời Trần. Di duệ của lần khởi dựng đó còn một bộ đất nung mang dấu ấn của thời ấy. Tấm bia đá có niên đại Chính Hòa thất thiên (1686) cho biết lần trùng tu lớn này với các công việc chính là làm tòa tiền đường, thiên hương, thiên điện, tạo tượng Thích Ca và các tòa khác.
Chùa Bồng Lai được xây dựng trên một quả đồi có hình dáng một con voi. Từ đây có thể nhìn bao quát bốn phía. Chùa Bồng Lai quay hướng Tây Nam nhìn ra sông Hồng. Đến gần chùa Bồng Lai, ngay từ đê sông Hồng ta có thể chiêm ngưỡng một hòn đảo “Bồng Lai tiên cảnh” giữa đồng lúa xanh, gần đó là nhà thờ và những nếp nhà cổ kính thấp thoáng sau những đám lá cây cổ thụ, bồng bềnh ẩn hiện giữa nền trời xanh biếc. Chùa có kiến trúc đẹp, ở giữa quả đồi đẹp cao nhất khu vực, như một dấu nối giữa trời và đất, giữa âm và dương. Từ đê bước tới chùa, ta phải leo một con dốc dài mới tới cửa Phật. Một không khí mát mẻ, êm dịu của hương hoa đại, của tán lá cổ thụ tạo nên cảm giác khoan khoái và lắng đọng.
Di tích “Bồng Lai thiên tạo” được lưu truyền trong nhân dân Hà Thạch gắn liền với tên tuổi của ông Đỗ Nguyên Cảnh, người có công giúp dân dựng chùa. Ông Đỗ Nguyên Cảnh, một vị tướng của Trịnh Doanh, là người Hà Thạch thấy sự rắc rối của làng bèn đem quân về đóng ở Xuân Lũng ông cho gọi các thợ cả đến bàn bạc rồi đêm đến mới điều quân về làng tựu xà xếp cột dựng chùa, chọn hướng Thao Giang (nhìn ra sông Hồng) để tránh việc làng tranh cãi. Ông ra lệnh mỗi đầu xà, đầu cột đều phải đệm vải tấm để việc dựng được nhanh chóng và bí mật. Vì vậy chỉ qua một đêm. Sáng ra dân làng bỗng thấy một ngôi chùa đồ sộ như có phép thần thông biến hóa. Từ đó chùa rất được sự ái mộ của tăng ni phật tử và dân trong vùng, họ đều cho rằng chùa do trời dựng, do vậy chùa được gọi là “Bồng Lai thiên tạo”.
Hiện dòng họ nhà Đỗ Nguyên Cảnh con cháu còn giữ được một đại sắc phong cho ông là “Đại nguyên soái”, sắc có niên đại 1741. Theo văn bia, chùa Bồng Lai thời Lê có kiến trúc kiểu nội công ngoại quốc, gồm 36 gian, tượng trưng cho 36 chòm xóm làng Hà Thạch. Trải qua những biến cố của lịch sử xã hội, chùa Bồng Lai đồ sộ bị mai một dần. Đến nay mặt bằng kiến trúc của chùa được bố cục như sau: Ngoài chùa là cổng tam quan làm lại (tam quan cũ bị phá năm 1953) từ cổng theo một lối đi thẳng tắp đến sân chùa lát gạch đỏ rộng 200m2, bên tả sân là ngôi nhà 3 gian mới xây, bên hữu dựng hàng bia đá. Kiến trúc chính của chùa gồm 2 tòa hình chữ đinh, được xây dựng trên nền đất cao nhất.
Tiền đường 5 gian dài 14m, rộng 3,1m, mới làm cách đây trên 20 năm, kết cấu kiến trúc kiểu quá giang gối tường bổ trụ. Tòa thứ hai kiến trúc thượng điện 5 gian, dài 13,5 m, rộng 8,7 m. Kết cấu vì kèo của tòa nhà này gồm câu đầu và trụ báng chống nóc. Thượng điện chùa Bồng Lai còn lại tương đối nguyên vẹn các thành phần kiến trúc cũ. Tất cả có 20 cột gỗ lớn nhỏ, cột cái cao 3,6 m, chu vi 1,25 m; cột con cao 2,5 m, chu vi 1,0m; thân cột được sơn son và vẽ hình rồng cuốn. Đáng chú ý là còn hai vì kèo của thế kỷ 17, lần trùng tu lớn thời Chính Hòa.
Đặc biệt trong chùa còn nhiều tảng kê chân cột, chất lượng bằng đá xanh mịn hạt, hình vuông mỗi cạnh 0,4 m, trên mặt trạm khắc một bông sen hai lớp, mỗi lớp 18 cánh, vòng tròn trong cùng là nơi để tiếp xúc với chân cột. Đây là những hòn kê từ lần trùng tu lớn ở thế kỷ 17.
Về bệ tượng đất nung chùa Bồng Lai, đã có nhiều tác giả quan tâm và đều cho rằng chúng có niên đại nửa cuối thế kỷ XIV. Đây là chiếc bệ được làm bằng đất nung duy nhất còn lại trên đất Phú Thọ được coi là nghệ thuật trang trí Phật giáo thời đại Lý Trần. Bệ được thiết kế giật cấp 3 tầng.
Kết cấu bệ gồm các viên đất nung có kích cỡ khác nhau được lắp vào nhau, mỗi mặt là một khối hình trang trí nổi, tạo thành một tác phẩm nghệ thuật bệ đất nung hoàn chỉnh. Các họa tiết trang trí gồm: Hoa cúc, hoa văn cánh sen, hoa hải đường và trang trí hình con ly đang trong tư thế vờn mây. Nhìn chung đây là chiếc bệ đất nung quí hiếm còn sót lại của chùa Bồng Lai.
Chùa Bồng Lai có hơn 200 pho tượng tròn làm bằng chất liệu gỗ và đất, kỹ thuật tạo dáng đẹp, sơn thếp hài hòa, được bài trí ở 2 tòa trên các bệ xây giật cấp cao dần về phía trong.
Các pho tượng chùa Bồng Lai đều được các nghệ nhân tạc với kỹ thuật cao, tràn đầy tâm hồn dù chất lượng bằng gỗ hay đất cũng được phủ sơn nhiều lớp, bên ngoài thếp vàng, thếp bạc cẩn thận, xứng đáng là những pho tượng có tiếng là đẹp xưa nay. Tượng được bài trí cân đối hài hòa từ tòa tiền đường vào thượng điện. Dáng tượng đẹp, đạt tới trình độ Phật tính cao bởi nghệ thuật tạo tượng còn khá nguyên vẹn của thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18.
Là di tích kiến trúc nghệ thuật đặc sắc, với bệ tượng đất nung, hệ thống tượng thờ, bia và các di tích vật quý khác, khu di tích chùa Bồng Lai là biểu hiện rực rỡ của một thời đại lịch sử phật giáo huy hoàng trênđất nước ta. Chùa Bồng Lai để lại một dấu tích khang trang với quy mô bề thế bên bờ sông Hồng, phong cảnh hữu tình, đã một thời là trung tâm sinh hoạt của cư dân trong vùng.
Chùa Bồng Lai đã được Bộ văn hóa thông tin cấp “Bằng công nhận di tích lịch sử - văn hóa” cấp quốc gia.
Địa chỉ: thôn Hà Thạch, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam
Trong 5 bảo vật quốc gia được công nhận tại Phú Thọ, ngôi chùa khoảng 800 tuổi Phổ Quang đang lưu giữ một bảo vật quốc gia là bàn thờ Phật bằng đá.
Chùa Phổ Quang (chùa Xuân Lũng) nằm trên gò đất thuộc xóm Chùa, xã Xuân Lũng, huyện Lâm Thao và quay mặt về hướng tây. Chùa được xây dựng vào thời Trần (1224-1400), là quần thể gồm Tam quan - gác chuông, nhà bia, tòa Tam bảo kiểu chữ Công gồm bái đường, thiêu hương và chính điện.
Thời Trần (1224-1400): Chùa được xây dựng trên một gò đất thuộc xóm Chùa, xã Xuân Lũng, huyện Lâm Thao, Phú Thọ.
Trùng tu lớn: Chùa đã được trùng tu nhiều lần, trong đó lần lớn nhất diễn ra vào năm 1629, đầu thế kỷ XVII. Lần trùng tu gần đây nhất diễn ra vào năm 2021.
Chùa Phổ Quang được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 10/7/1980.
Công trình kiến trúc tiêu biểu trong sân chùa là Tam quan - gác chuông, được bảo lưu kiến trúc cổ gần như nguyên vẹn với hai tầng 8 mái, bờ nóc đắp hình long cuốn thủy (rồng hút nước). Trên gác chuông treo chuông đồng Phổ Quang tự chung và khánh đồng, niên đại đúc từ năm Minh Mạng nhị thập niên (1839).
Bàn thờ Phật bằng đá trong chính điện được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là bảo vật quốc gia vào ngày 25/12/2021. Đây là một trong 5 bảo vật quốc gia của Phú Thọ gồm Trống đồng Đền Hùng, Bộ khóa đai lưng bằng đồng, Sưu tập nha chương và tượng Mẫu Âu Cơ.
Bàn thờ Phật bằng đá là hiện vật lịch sử gắn với ngôi chùa từ cuối thế kỷ XIV do Sử Đài Điển ngự thư Đô chính thủ Nguyễn Lạp (Đạo Không cư sĩ) cùng Thái học Điển trù Tiểu chi hầu Nguyễn Chiêu và vợ là bà Nguyễn Thị Sửu cung tiến, hoàn công vào đầu năm 1387. Bệ đá hoa sen hình chữ nhật, cao hơn 1 m, rộng 1,25 m và dài 3,3 m, do các phiến đá xanh ghép lại với nhau, nâng đỡ bộ tượng Tam thế. Bệ đá cao 5 tầng, điêu khắc trang trí ba mặt. Mặt sau chỉ chạm cánh sen tầng trên cùng. Các hoa văn trang trí còn lại khắc theo hình rồng và động vật.
Ngoài bệ sen, chùa Phổ Quang còn nổi tiếng nhờ là nơi lưu giữ hơn 30 pho tượng gỗ và đất.
Về hai tấm bia đá trong chùa, Sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam cho biết một tấm bia cho biết chùa là ngôi cổ tự danh lam bị hư hỏng nên vào năm 1626 đã được những người đứng đầu ở địa phương tổ chức trùng tu.
Chùa được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia năm 1980. Tháng 4/2021, Tam bảo và nhà bia tại chùa được xã trùng tu, tôn tạo. Trước đó, vào năm 2016, gác chuông cũng được tu bổ. Tổng mức đầu tư cho các hạng mục là hơn 11 tỷ đồng.
Chùa Phổ Quang có bốn ngày lễ chính: Rằm tháng giêng, ngày 8/4 (lễ tắm Phật), rằm tháng 7 (lễ xóa tội vong nhân) và ngày 8/12 âm lịch. Chùa Phổ Quang không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động tôn giáo lành mạnh, hướng thiện mà còn là niềm vinh dự, tự hào của người Làng Dòng.
Gần trưa ngày 23/10/2024, chùa Phổ Quang bị cháy. Khói lửa bốc ra từ ban Tam Bảo của tòa chính điện và bao trùm chính điện trong ít phút. Hàng trăm người dân đã dùng nước dập lửa nhưng bất thành. Công an huyện Lâm Thao huy động 5 xe chữa cháy cùng hàng chục chiến sĩ tới hiện trường. Đến 12h, hỏa hoạn được dập tắt, tuy nhiên phần lớn cấu kiện của tòa chính điện đã bị cháy rụi. Thời điểm cháy, trong chùa không có người.
Hiện tại, chùa chưa được đưa vào điểm du lịch của tỉnh nên chưa có số liệu khách thập phương đến thăm viếng chùa. (Theo Sở VHDLTT Phú Thọ, Cổng thông tin điện tử huyện Lâm Thao)
Địa chỉ: xóm Chùa, xã Xuân Lũng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một thiền viện thuộc dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử nằm tại thị trấn Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội khoảng 85 km về phía tây. Cùng với Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trong 3 thiền viện lớn nhất của Việt Nam. Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng ngay bên cạnh Khu di tích danh thắng Tây Thiên cổ tự (Chùa Tây Thiên, Đền Quốc Mẫu Tây Thiên Lăng Thị Tiêu, Đền Cô, Đền Cậu, Đền Thõng, Thác Bạc).
Thiền viện Tây Thiên là nơi đào tạo về Phật giáo một cách có hệ thống, tạo điều kiện để Phật giáo Việt Nam phát triển cả về bề rộng cũng như chiều sâu và đẩy mạnh giao lưu với các dòng phật giáo của các nước khác.
Đây là một trong những nơi phát tích sớm nhất của Phật giáo Việt Nam. Khoảng thế kỷ thứ 3, có một vị hòa thượng tên là Khương Tăng Hội dừng chân ở đây, dựng chùa truyền giáo, vì thế nơi đây là cái nôi của Phật giáo Việt Nam. Thiền học Việt Nam được khởi đầu với hòa thượng Khương Tăng Hội, ông cũng đem Thiền học sang truyền bá ở Trung Quốc thời Tôn Quyền (năm 247). Cha của Khương Tăng Hội là người nước Khương Cư (Sogdiane) cư trú tại Giao Chỉ để buôn bán, mẹ là người Giao Chỉ, ông chắc chắn là sinh trên đất Giao Chỉ, cha và mẹ ông mất năm ông lên mười tuổi, ông mất năm 280 bên nước Tấn.
Vua Hùng thứ 6 tên là Hùng Chiêu Vương lên chùa Thiên Ân trên đỉnh núi Tam Đảo để cầu tự, khi trở về đã gặp bà Lăng Thị Tiêu và rước về làm vợ; bà là người xinh đẹp, giỏi giang, có tài thao lược, giúp vua Hùng đánh giặc giữ nước Văn Lang.
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xây dựng trên nền của một thiền tự cổ (Thiên Ân Thiền Tự) có từ thế kỷ 3.
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên được khởi công từ ngày 4/4/2004 (15/2 âm lịch) với tổng số vốn 30 tỷ đồng. Khi làm lễ khởi công, trên nền ngôi chùa cổ các nhà sư đã tìm được vô số các viên gạch và mảnh ngói vỡ có hoa văn mang dấu ấn của thời Trần. Sau hơn 15 tháng xây dựng công trình mang tầm cỡ quốc gia này đã chính thức hoàn thiện và được khánh thành ngày 25/11/2005. Công trình to lớn này đã được xây dựng với thời gian nhanh và giá thành thấp kỷ lục, riêng tòa Đại Hùng Bửu điện chỉ thi công trong vòng 9 tháng. Sở dĩ tốc độ xây dựng nhanh như vậy vì có sự tham gia đóng góp của hàng ngàn người, trong đó có các nghệ nhân và làng nghề hầu khắp trong cả nước: thợ mộc Hà Tây, Bắc Ninh; thợ đá Non Nước, Ninh Bình; thợ xây Nam Định, Hà Nội.
Đặc biệt, vào ngày 23/12/2015, quần thể di tích Tây Thiên, bao gồm Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, chính thức được Nhà nước công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Điều này càng khẳng định giá trị văn hóa, lịch sử và tâm linh của tây thiên thiền viện trúc lâm, đồng thời thu hút đông đảo du khách thập phương đến chiêm bái, hành hương và khám phá vẻ đẹp độc đáo nơi đây.
Chính điện (Đại Hùng Bửu Điện) nằm chính giữa Thiền Viện có chiều cao 17m, diện tích 675m2, có 4 trụ đỡ, đường kính mỗi trụ gần 1m nên có thể dành cho 600 phật tử, du khách ngồi thiền hoặc ngồi nghe giảng phật pháp. Trong chính điện thờ tượng Phật Tổ cùng với hai câu đối: Phước đức sâu dày do gieo nhân đạt quả, Tuệ giác tròn đầy bởi bát nhã gội nhuần và Phật giáo chỉ đường lìa mê về bến giác, Thiền tông không lối trực ngộ đến chân như.
Bên trái tòa chính điện là Lầu Chuông, bên phải là Lầu Trống. Trống được làm từ gỗ mít rừng Gia Lai, có đường kính lên đến 1,5m, dài 2m; Chuông có trọng lượng 2 tấn.
Phía sau chính điện là Nhà Tổ thờ tượng Trúc Lâm tam tổ (Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang). Các bức tượng Phật ở chính điện và Nhà Tổ đều được làm từ đá sa thạch (loại đá người Chăm và người Ai Cập thường dùng để tạc tượng) có độ bền lâu dài. Trong Nhà Tổ có hai câu đối: Tổ tổ truyền đăng phát huy tâm ấn Phật, Tăng tăng tục diện lưu biến chính tông thiền và Tây Thiên khởi nguồn Phật kiếp kiếp truyền đăng tục diện mãi truyền hằng, Yên Tử mở lối thiền đời đời đức hóa lưu phương luôn chuyển khắp.
Trong khu Thiền viện còn có: Nhà ăn phục vụ cơm chay cho các phật tử và du khách, Nhà sách bán kinh phật và đồ lưu niệm, Thư Viện, Khu nội viện gồm tăng đường, thiền đường và trai đường. Thiền viện dành khoảng 40 phòng để khách tăng và khách ni ở xa đến có thể nghỉ lại chùa tham quan và nghiên cứu phật pháp trong khoảng thời gian từ 1 - 2 tuần. Việc ăn ở, thiền viện không thu bất cứ khoản phí nào.
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một trung tâm tu học lớn, hàng năm thu hút rất nhiều thanh thiếu niên đến tu tập trong các khoá tu. Hiện nay nhiều gia đình ở Hà Nội gửi con lên đây để các nhà sư dạy đạo làm người, nhất là trong dịp hè. Năm 2009, đây cũng là nơi tổ chức họp Trại Thanh thiếu niên Phật tử Thủ đô.
Ngày hội chính: 14/2 âm lịch hàng năm. Trong dịp tháng Giêng, mỗi ngày có hàng ngàn khách hành hương tới vãn cảnh.
Từ Hà Nội đi theo hướng Tây Bắc (quốc lộ 2B) lên chân dãy núi Tam Đảo, xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo khoảng 74;km. Từ đây rẽ trái để đi Tây Thiên, nếu đi thẳng là lên Khu nghỉ mát Tam Đảo. Đứng dưới chân núi nhìn lên, Thiền viện thấp thoáng trong mây. Đường lên khúc khuỷu, quanh co, vượt qua cửu đỉnh (9 dốc), bốn bề mây bay, thông reo, gió thổi, thoáng rộng và thanh sạch. Ô tô có thể lên đến chân Cổng Tam Quan của Thiền Viện.
Địa chỉ: khu danh thắng Tây Thiên, thị trấn Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc (cũ), Việt Nam
Chùa Hà Tiên thuộc thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc nằm trên đường lên thị trấn du lịch Tam Đảo, gắn liền với câu chuyện sư trụ trì Tịnh Huân cho lập đàn tự hóa cầu mưa. Ngày nay, chùa Hà Tiên không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là nơi du khách chiêm ngưỡng kiến trúc xưa và hòa mình vào không gian yên bình.
Chùa Hà Tiên Vĩnh Phúc là một trong những ngôi chùa cổ, đã trải qua nhiều lần trùng tu, phục hồi để lưu giữ những giá trị tín ngưỡng của cha ông. Đến nay, ngôi chùa này trở thành một trong những điểm đến của không ít Phật tử và du khách với mong muốn tìm một nơi yên bình, cầu mong bình an cho gia đình.
Cùng với Chùa Tích (Ngũ Phúc Tự) và Chùa Bầu, Chùa Hà Tiên được xem là đại danh lam thời Lý – Trần của vùng đất Tam Đảo. Qua những tư liệu liệu và hiện vật còn lưu tại khu vực nền chùa ngày nay đều khẳng định chùa có niên đại từ thời Lý – Trần.
Do nhiều lần trùng tu, xây dựng nên mặt bằng chùa đã bị san ủi hết, các di vật còn lại không đủ để khẳng định niên đại khởi dựng. Chỉ còn một số tư liệu chứng minh chùa có lần trùng tu lớn nhất vào năm Quý Mùi – 1703 (năm Chính Hòa 24).
Theo truyền thuyết, vào thời Hùng Chiêu Vương, khi quốc gia lâm vào cảnh nguy nan, bà Lăng Thị Tiêu từ vùng Tây Thiên đã chiêu binh đánh giặc. Trên đường về Phong Châu, bà nghỉ tại chùa Hà Tiên và chiêu mộ thêm các tráng sĩ trong vùng để hội quân với Hùng Chiêu Vương tại Phong Châu. Sau bà được tôn phong là “Quốc Mẫu Tây Thiên” và được nhân dân lập bài vị thờ tại chùa, gọi là thờ “Đức Thánh Đại Vương”.
Bên cạnh đó, chùa Hà Tiên còn được biết đến với tên gọi là “chùa cầu mưa”. Điển tích này gắn liền với sự kiện trụ trì Tịnh Huân quyết định lập đàn tự hóa để cầu mưa sau khi vùng này thường xuyên hạn hán, người dân đói khổ. Sau khi ngài phát nguyện trước tam bảo và đất trời, ngài tọa trong tư thế kiết già và tự thiêu.
Sau khi ngài tự thiêu, trời đổ mưa suốt 3 ngày. Để nhớ ơn sư trụ trì, người dân địa phương đã dựng một ngôi tháp bảo ba tầng để lưu trữ tro cốt ngài. Đến thời vua Quang Trung mới suy tôn ngài là Bồ tát.
Ngày 25/1/1961, Bác Hồ thăm và nghỉ tại chùa Hà, rửa tay ở giếng Hà (giếng Ngọc) và khen nước trong mát. Để tưởng nhớ Bác, địa phương xây dựng nhà lưu niệm và giếng Ngọc trở thành hạng mục đặc biệt cần bảo tồn.
Chùa Hà Tiên vừa là di tích lịch sử, vừa đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa và tâm linh của người dân địa phương. Với khuôn viên rộng 6,2ha, chùa từng là phật học đường, truyền bá tri thức giáo pháp cho nhiều thế hệ tăng ni, cư sĩ qua hàng trăm năm. Hiểu được giá trị lịch sử và văn hóa của chùa Hà Tiên, năm 1995, UBND tỉnh Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc) đã ra quyết định xếp hạng chùa là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Quyết định này góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, đáp ứng nhu cầu tâm linh của Phật tử và khách du lịch.
Không gian chùa hiện nay được xây dựng lại với quy mô lớn, qua tam quan từ phía Đông Nam đến tả hữu môn, vòng quanh hành lang đến tam bảo. Kiến trúc không gian mô phỏng tòa bảo tháp 3 tầng. Từ sân chùa, phải qua 9 bậc thềm, gọi là “cửu trùng” mới đến vào được bên trong. Mái chùa uốn cong 4 góc, trên nóc có “lưỡng long triều nguyệt”.
Phía sau chùa là nhà thờ tổ, đối xứng hai bên có nhà tiếp khách và phòng trưng bày. Mặt tiền sảnh là bộ cánh cửa bằng gỗ tứ thiết, chạm trổ công phu, phía trên đặt chấn song con tiện, bên dưới tạc phù điêu tứ quý cách điệu.
Chùa Hà Tiên còn có tên khác là “chùa cầu mưa”. Ngày xưa trong vùng thường xuyên hạn hán. Người dân sống dựa vào nông nghiệp rơi vào cảnh đói khát. Vị trụ trì chùa khi ấy là Tịnh Huân đã cho lập đàn cầu mưa. Hơn thế, vị sư đã nguyện tự thiêu để cầu mưa cho dân vào ngày 30-5 âm lịch.
Sau khi phát nguyện trước tam bảo và đất trời, ngài đã tọa trong tư thế kiết già rồi tự thiêu để cúng già chi thiên, cầu đảo cho dân. Đến ngày 1-6, sau một ngày tự thiêu, thì trời mưa lớn và kéo dài liên tiếp 3 ngày. Và từ đó, hàng năm cứ đến ngày giỗ của sư tổ, trời thường đổ mưa. Vô cùng ghi nhớ công ơn của bậc chân tu, người dân đã dựng ngôi tháp bảo ba tầng để lưu trữ tro cốt của ngài.
Hiện trong vườn mộ tháp của chùa có 8 ngôi tháp. Phần lớn những bảo tháp vẫn còn nguyên với 3 tầng chính. Các tháp cao khoảng 3m, có 4 mặt, dựng bằng gạch nung đỏ kết dính bằng nguyên liệu từ nhựa cây kết hợp đất sét nhão.
Dù 8 ngôi tháp đều lưu giữ báu thân của các vị cao tăng, tuy nhiên, ở tháp của ngài Tịnh Huân lại đặc biệt hơn do được bao phủ bởi một cây sanh. Cây sanh lâu năm vẫn xanh tốt, mọc rất nhiều rễ, bao trùm gần trọn 3 mặt của bảo tháp.
Trong chùa còn có giếng cổ (giếng Ngọc) có dòng nước lành mát. Ngày xưa, vào mùa hạn, những giếng khác đều cạn, riêng giếng cổ vẫn còn nước, vì thế người dân trong làng phải ra giếng cổ múc nước. Giếng chùa Hà Tiên “trong xanh, mạch thủy nhiệm màu” nên các cụ xưa vẫn ví von: “Dù ai có xấu như ma/ Uống nước chùa Hà lại đẹp như tiên”.
Hàng năm, vào những ngày lễ lớn, khách thập phương đến chùa lễ Phật đều xin nước ở giếng Ngọc, mang về thắp hương và uống dần, nhất là những ngày đầu xuân. Người ta tin rằng có nước giếng cổ để sử dụng dịp Tết sẽ mang đến nhiều điều may mắn.
Địa chỉ: đồi Hà, thôn Gia Viễn, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (cũ), Việt Nam
Chùa Tích Sơn là một trong những điểm tham quan du lịch ở Vĩnh Phúc được rất nhiều người yêu thích ghé thăm. Chùa nằm ở phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc. Tích Sơn vốn là một ngôi chùa cổ, là điểm đến tâm linh của người dân Vĩnh Phúc và nhiều du khách thập phương tìm đến.
Chùa Tích Sơn có một bề dày lịch sử đặc biệt và đã tồn tại qua nhiều thế kỷ. Dù không rõ chính xác thời gian xây dựng, nhiều tài liệu cho rằng chùa được hình thành từ cuối thời nhà Lý.
Trải qua bao thăng trầm, chùa Tích Sơn vẫn giữ được vẻ uy nghi và cổ kính, là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng.
Đặc biệt, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chùa từng là nơi nuôi giấu cán bộ cách mạng, góp phần không nhỏ vào cuộc chiến giành độc lập của dân tộc. Với những giá trị lịch sử sâu sắc ấy, chùa Tích Sơn trở thành một điểm đến đặc biệt, thu hút đông đảo Phật tử và du khách thập phương.
Chùa Tích Sơn có quy mô đồ sồ với nhiều kiến trúc nối liền nhau như tam quan, gác chuông, nhà Tổ, chánh điện và mộ tháp, tất cả tạo nên một hệ thống chùa Tích Sơn thiêng liêng, bề thế. Chánh điện của chùa Tích Sơn có kiến trúc hình chữ đinh, với hệ thống cột bằng gỗ và gạch xây. Mái của chánh điện được nối liền nhau bởi nhiều loại gỗ quý được bào nhẵn, làm nên chánh điện vững chắc. Nổi bật ở chánh điện là hệ thống thờ, nơi đây còn lưu giữ 16 bức tượng bằng gỗ và đồng. Đặc biệt phải kể đến bức tượng Phật A Di Đà bằng đồng nguyên khối cao 1 mét, ở tư thế ngồi thiền, trên tòa sen toát lên vẻ cân đối, hài hòa, thể hiện sự tinh xảo. Bên cạnh đó ở chùa Tích Sơn còn có một chuông đồng được đúc từ năm 1832 và một khánh đồng cổ với nhiều giá trị cao.
Địa chỉ: Số 2 phố Phạm Văn Đồng, phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc (cũ), Việt Nam
Chùa Tiên Hòa Bình là một quần thể du lịch tâm linh rộng lớn nằm ở khu vực bên kia sườn núi Hương Sơn. Danh thắng này được gọi là Chùa Tiên – Đầm Đa, nằm ở xã Phú Lão, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình. Ngôi chùa này được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa vào tháng 9 năm 1989.
Tương truyền xưa kia chùa đã được xây theo kiểu kiến trúc nhà sàn với nguyên vật liệu chính là thanh tre, nứa. Qua nhiều thăng trầm của lịch sử chùa đã bị xuống cấp và tiến hành trùng tu năm 1988 để tôn tạo lại khang trang được như ngày nay. Đến dâng hương tại đây khách hành hương sẽ được bày tỏ lòng thành cũng như mong ước của mình đến với các đức Phật.
Tương truyền, ngôi chùa đẹp ở Hòa Bình này được xây dựng từ thời xa xưa, mang đậm ấu ấn kiến trúc nhà sàn của vùng Tây Bắc. Vì được tàm từ tre nứa và chất liệu thô mộc nên chùa bị xuống cấp nghiêm trọng.
Hiện tại, chùa Tiên Hòa Bình sở hữu quy mô rộng lớn với kiến trúc đẹp và hoàng tráng bậc nhất. Nhà chùa có địa thế tựa lưng vào núi, mặt hướng ra thung lũng tuyệt đẹp. Các hạng mục trong chùa mang nét kiến trúc ấn tượng với mái ngói đỏ cong cong, góc nào lên hình cũng vô cùng đẹp.
Chỉ riêng ngôi chùa trong quần thể chùa Tiên – Đầm Đa đã chiếm diện tích hơn 1000 m2, bên trong lắp đặt nhiều tượng phật được thiết kế công phu, uy nghiêm và lộng lẫy. Vào khu chính điện của nhà chùa, du khách không khỏi vỡ òa trước vẻ đẹp bề thế nơi đây.
Hệ thống hang động quanh chùa Tiên được trang bị đèn và loa âm thanh, mang lại cảm giác bình yên cho du khách khi bước vào. Bên trong hang là hằng hà sa số những khối măng đá, thạch nhũ hiện lên lung linh, huyền bí. Tùy vào óc sáng tạo của mình mà bạn có thể nhìn ra đủ mọi hình thù khác lạ.
Khu du lịch tâm linh Chùa Tiên – Đầm Đa có rất nhiều hang động như Động Ông Hoàng Bảy, Động Tam Hòa, Động Cô Chín, Động Suối Vàng Suối Bạc, Động Cậu Bé, Động Ông Hoàng Mười, Động Cung Tiên,… để du khách được tự do khám phá. Trong đó, động Tam Hòa được ví như một “bảo tàng nghệ thuật” vô cùng đẹp và lộng lẫy.
Lễ hội đầu năm: Lễ hội có quy mô lớn của Chùa Tiên diễn ra từ tháng Giêng đến tháng 4 âm lịch, thu hút khá nhiều khách tham quan lẫn Phật tử đến tham gia. Những chiếc kiệu Thành hoàng như được tái hiện từ truyền thuyết xa xưa là trung tâm của ngày hội, được người dân tộc Mường khiêng trên vai.
Địa chỉ: xã Phú Lão, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình (cũ), Việt Nam
Chùa Phật Quang Hòa Bình tọa lạc trên đồi Ba Vành, tổ 21, phường Tân Thịnh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Vị trí đắc địa này giúp ngôi chùa nổi bật giữa thiên nhiên hùng vĩ, với tầm nhìn bao quát dòng sông Đà thơ mộng và công trình nhà máy thủy điện Hòa Bình nổi tiếng. Chùa không chỉ là điểm nhấn văn hóa tâm linh mà còn là biểu tượng gắn kết giữa con người và thiên nhiên, thu hút nhiều Phật tử và du khách ghé thăm.
Chùa Phật Quang Hòa Bình, còn được gọi là Hòa Bình Phật Quang Tự, chính thức khởi công xây dựng vào ngày 11/5/2009 (nhằm ngày 17 tháng 4 năm Kỷ Sửu) nhân dịp Đại lễ Phật Đản Phật lịch 2.553. Buổi lễ khởi công có sự hiện diện và chứng minh của chư vị Tôn đức Tăng, bao gồm Hòa thượng Thích Thanh Tứ, cùng các Thầy Thích Thanh Nhiễu, Thích Quảng Tùng, Thích Thanh Điện, Thích Thanh Hưng, Thích Đức Nguyên, Thích Chiếu Tuệ, và đông đảo chư Tăng Ni. Sự kiện còn thu hút sự tham dự của đại diện chính quyền địa phương và hơn 1.000 Phật tử từ Hòa Bình và các tỉnh lân cận, tạo nên một bầu không khí trang nghiêm và thành kính.
Việc xây dựng chùa Phật Quang không chỉ mang ý nghĩa tâm linh to lớn mà còn là biểu tượng của sự phát triển văn hóa Phật giáo tại Hòa Bình. Công trình là sự kết tinh từ sự đồng lòng của chư Tăng Ni, chính quyền, và các Phật tử trong và ngoài tỉnh. Ngôi chùa trở thành nơi quy tụ tinh thần hướng Phật, góp phần lưu giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tạo điểm nhấn văn hóa đặc sắc cho vùng đất Tây Bắc.
Chùa Phật Quang Hòa Bình có diện tích rộng lớn lên đến 5 hecta, bao gồm các khu vực chính như chùa Thượng, chùa Trung, chùa Hạ, tháp, đền Mẫu, hội trường và văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Hòa Bình, cùng các công trình phụ trợ khác. Mỗi khu vực trong chùa được xây dựng tỉ mỉ, mang đậm dấu ấn của kiến trúc Phật giáo truyền thống, kết hợp với sự tôn nghiêm và không gian rộng mở, tạo nên một quần thể kiến trúc hoành tráng và linh thiêng.
Chùa Thượng là công trình nổi bật nhất của chùa, được xây dựng theo kiểu chữ "Công". Tòa phạm vũ uy nghiêm, rộng lớn với các mái chồng diêm được trang trí bằng những đầu đao cong vút, hình rồng uốn lượn. Điện Phật trong chùa được bài trí rất tôn nghiêm, nơi thờ các tượng Phật quan trọng như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tòa Cửu Long, ban Quan Âm Chuẩn Đề và ban Địa Tạng, tạo nên không gian thiêng liêng cho tín đồ hành hương và chiêm bái.
Ngoài ra, sân chùa Thượng còn nổi bật với đài Bồ tát Quan Thế Âm lộ thiên và tháp chuông. Quả đại hồng chung tại chùa, cao gần 3m, đường kính gần 2m và nặng khoảng 5 tấn, là một trong những quả chuông lớn nhất khu vực Tây Bắc. Đặc biệt, quả chuông này được đúc tại chùa và nhận được sự hỗ trợ tài chính từ một doanh nghiệp Nhật Bản để xây dựng tháp chuông. Đây là điểm nhấn quan trọng của quần thể kiến trúc, vừa mang giá trị văn hóa, vừa có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, góp phần làm nên vẻ đẹp và sức hút đặc biệt của chùa Phật Quang Hòa Bình.
Địa chỉ: đồi Ba Vành, tổ 21, phường Tân Thịnh, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình (cũ), Việt Nam
Hang Chùa hay Chùa Hang, còn được gọi là Thanh Lam Tự, là một ngôi chùa nằm trong động Văn Quang, thuộc thôn Đồng Mai, xã Yên Trị, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình. Đây là một di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, tôn giáo và danh lam thắng cảnh.
Năm 1994, Chùa Hang – Hang Chùa đã được Bộ Văn hoá công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia. Cũng từ ngày đó, cứ vào những ngày đầu năm, xã Yên Trị lại tưng bừng mở hội chùa Hang.
Hang Chùa, còn được biết đến với tên gọi động Văn Quang, là một hang động nằm trong dãy núi Chùa Hang, tọa lạc giữa cánh đồng thuộc thôn Đồng Mai, xã Yên Trị, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình, Việt Nam. Hang này được xem như một điểm đến lịch sử và văn hoá quan trọng, nổi bật với kiến trúc nghệ thuật và sự quan trọng tôn giáo, cũng như là một danh lam thắng cảnh đáng chú ý.
Trong lòng hang Văn Quang, Chùa Hang là tên gọi phổ biến để chỉ ngôi chùa được xây dựng bên trong hang động này. Trước đây, chùa được biết đến với tên gọi là Thanh Lam tự, điều này cho thấy sự lâu đời và sâu sắc của di tích này trong lịch sử văn hoá của địa phương.
Chùa Hang hội tụ linh khí của đất trời, trong núi Chùa Hang có trên dưới 10 hang động lớn nhỏ, trong đó có 3 hang động có suối chảy, có kho tàng nghệ thuật kiến trúc cổ tinh xảo của các bậc tiền nhân được minh chứng là 2 ngôi chùa cổ và 3 bức minh văn, Hán tự được trạm khắc tinh xảo, có giá trị về mặt lịch sử, nghệ thuật, các họa tiết trên bát hương và án hương cổ trên đá có niên đại từ thế kỷ XVIII.
Chùa Hang còn có tên gọi Văn Quang Động, chùa tọa trên vách đá. Chùa Hang có 2 ngôi chùa kiến trúc cổ xây dựng theo kiểu chữ nhất. Chùa Hang được các bậc tiền nhân xây dựng từ lâu và được tôn tạo vào thời Hoàng triều Khải Định Nhâm Tuất niên (triều Khải Định năm Nhâm Tuất). Lúc bấy giờ, chùa có tên gọi Thanh Lam Tự. Thanh Lam Tự có hệ thống tượng phật cổ được tạc từ thế kỷ XVIII. Đây là di sản nghệ thuật điêu khắc tinh xảo, độc đáo của dân tộc Mường Hòa Bình. Chùa còn có một bàn cờ đá, phía trên cửa chùa khắc dòng chữ Hán trên vách đá là “Lăng tiêu tiếu bích” (ngọn núi biếc cao vút, sương phủ mờ ảo).
Điều độc đáo và ấn tượng nhất tại hang Chùa có lẽ là những vỏ ốc, vỏ sò hóa thạch xếp tầng tầng, lớp lớp lên nhau tạo thành một “quả đồi vỏ ốc” trong hang. Đây là một kiệt tác của thiên nhiên ban tặng cho mảnh đất Yên Trị. Bất cứ du khách nào khi đến thăm quan, vãn cảnh hang Chùa đều phải trầm trồ, thán phục trước vẻ đẹp huyền bí của quả đồi vỏ ốc.
Ngoài những vết tích của nền Văn hóa Hòa Bình, hang Chùa còn được biết đến là nơi lưu giữ vết tích trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1955 – 1975). Nơi đây, trước kia là vùng núi hẻo lánh nên hang Chùa được bộ đội đào hầm rộng xuyên núi làm kho vũ khí. Sau khi kho vũ khí được chuyển đi, núi Chùa Hang được chọn làm kho bạc Nhà nước, cất giấu ngân khố quốc gia, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Du khách có thể men theo đường lát đá phiến bao gồm 53 bậc để đặt chân lên sân chùa ở bên tay trái, chùa nằm trong một ngách của hang 2. Trước cửa chùa là một khoảng sân rộng 6m, dài 16m, hai bên được bó nền bằng hai lớp đá phiến xanh có thể trải chiếu để ngồi. Đặc biệt khi bước vào chùa ta gặp ngay một bàn cờ được khắc ngay trên đá hình vuông (56 x 56cm) hàng năm vào ngày 15 tháng giêng dân làng mở hội, ở đây diễn ra thi đấu cờ.
Chùa được xây dựng có kết cấu hình chữ nhất (-), có chiều dài 3m; chiều rộng 3,14m; cao 4,10m, với cấu trúc cột cái, cột quân, cửa bức bàn phía trước, phía sau và ván bưng xung quanh chùa đều bằng gỗ. Chùa được xây dựng từ lâu đời và được tôn tạo lại vào thời nhà Nguyễn ở trên thượng lương chùa có ghi dòng chữ: “Hoàng triều Khải Định Nhâm tuất niên” (Khải Định năm Nhâm Tuất 1892).
Từ cửa hang chùa 1 rẽ phải khoảng 5 – 6m là đến hang thứ 3 là đến Chùa Hang 2 (theo cách gọi của nhân dân đại phương). Nhìn tổng thể Chùa Hang 2 cũng được xây dựng có kết cấu như chùa Hang 1, với kiến trúc hình chữ nhất (-), gồm có bốn hàng cột cái cao 2,81m; cột quân cao 2,38m, ngôi chùa đứng án ngữ trước cửa hang thứ 3. Chùa hang 2 cũng có kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ, kể cả mái lợp. Theo nhân dân địa phương Chùa Hang 2 được xây dựng từ lâu và được trùng tu tôn tạo lại vào năm thời nhà Nguyễn. Hiện trên thượng lương chùa có ghi dòng chữ năm trùng tu: “Đại Nam Bảo Đại thập nhị niên tuế thứ Đinh sửu thập nhị nguyệt thập nhị nhật lương thời thụ trụ thượng lương đại cát lượng”. Nghĩa là chùa được tu bổ vào năm Bảo Đại thứ 12, tháng 12, ngày 12 năm Đinh sửu (năm 1937).
Chùa Hang 1 và Chùa Hang 2 là những công trình kiến trúc mà người xưa đã lợi dụng địa thế mái vòm của hang đá để xây dựng công trình kiến trúc gỗ ngôi chùa ở bên trong hang, vì mái đá, vòm hang có sức bền để chống đỡ mưa nắng. Nhưng trong tâm niệm về tín ngưỡng tôn giáo, người xưa vẫn muốn điểm tâm kiến trúc thành ngôi chùa với đầy đủ các hạng mục như công trình đứng ngoài trời để bảo vệ tượng pháp và di vật cổ, đồng thời cũng tạo thêm vẻ trang nghiêm, trầm mặc, mà sức mạnh và đường nét bố cục của kiến trúc tạo nên.
Chùa Hang được xây dựng trong hang thứ 2, có kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ, trong chùa có hệ thống tượng Phật được tạc từ thế kỷ 18 đây là một di sản độc đáo đối với di tích tỉnh Hoà Bình, trên những bức cốn là những đường nét hoa văn được chạm trổ cầu kỳ mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Theo các nhà khảo cổ học thì Hang Chùa cũng là nơi phát hiện ra dấu vết khảo cổ học thuộc nền “Văn hoá Hoà Bình”. Trong hang 2 và hang 3 người ta đã tìm thấy các trầm tích hoá thạch thức ăn của người xưa như vỏ ốc, vỏ sò, mảnh công cụ…
Vào thời Trung đại dấu tích văn hoá cũng để lại ở đây khá đậm nét đó là quả chuông đồng được đúc vào năm Cảnh Hưng thứ 44 (năm 1783). Người xưa cũng để lại ở đây 2 dòng chữ đại tự, 1 bài thơ, 2 bài ký, một bia đá. Đó là những văn tự thành văn rất hiếm hoi ở các di tích hang động của tỉnh Hoà Bình hiện nay.
Hàng năm, chư Tôn đức chùa Hang và dân làng 14 thôn xóm xã Yên Trị, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình mở hội đầu xuân, một truyền thống tín ngưỡng dân gian được tổ chức trong 3 ngày vào ngày mùng 13 – 15 tháng Giêng cầu quốc thái dân an, cầu cho mưa thuận gió hòa, cầu cho mùa màng tươi tốt.
Trong suốt mùa lễ hội, hàng nghìn người đến từ nhiều vùng miền trong cả nước đã quy tụ về chùa Hang, đại chúng còn được hòa vào không khí đầu xuân khi tham gia các trò chơi dân gian, thi đấu thể thao và thưởng thức các món ăn đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số, qua cuộc thi ẩm thực của các thôn trên địa bàn xã Yên Trị.
Địa chỉ: động Văn Quang, thuộc thôn Đồng Mai, xã Yên Trị, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình (cũ), Việt Nam
Tổng hợp từ Internet