Việt Nam

[Bản Đồ Tâm Linh] Âm Vang Huyền Tích Biên Cương – 10 ngôi Đền Chùa Nổi Tiếng Ở Cao Bằng

Blog


Giữa khung cảnh biên cương hùng vĩ của Cao Bằng, những ngôi đền, chùa không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là chứng nhân của lịch sử và văn hóa vùng cao. Từ bức phù điêu rùa đá cổ kính ở Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc bên thác nước hùng vĩ, đến không gian thanh tịnh của Chùa Viên Minh ẩn mình trong lòng thành phố, mỗi ngôi đạo trang nghiêm tựa như lời mời gọi dâng hương, lắng nghe tiếng chuông vọng giữa đại ngàn. Hãy cùng freSy chúng mình bước vào hành trình khám phá các đền chùa linh thiêng tại tỉnh Cao Bằng, nơi bạn sẽ cảm nhận hơi thở của Phật pháp hòa quyện với núi non và câu chuyện biên ải qua từng mái ngói cong, từng điện thờ rêu phong.

Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc

freSy with passion

Giới thiệu

Được biết đến là một trong những công trình quy mô và có thiết kế cổ xưa được xây dựng tại mảnh đất biên cương Cao Bằng, ngôi chùa Phật tích trong những năm gần đây thu hút được lượng lớn du khách tham quan. Nằm cách thác Bản Giốc Khoảng chừng 500m tại huyện Trùng Khánh, Cao Bằng mặc dù chưa được xây dựng lâu nhưng đây đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng.

Một trong những thế mạnh tạo nên vẻ đẹp hùng vĩ, trang nghiêm của Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc đó chính là vị trí xây dựng. Với lưng tựa núi Phia Nhằm và mặt chùa hướng ra một vùng đất rộng lớn, tất cả tạo nên vẻ đẹp lạ thường không khác gì một bức tranh đầy ấn tượng cho du khách khi ghé thăm.

Hiện nay, đây là nơi đặt đền thờ cho vị anh hùng người Nùng Trí Cao, với công lao lớn trong việc bảo vệ dân tộc và cũng là biểu tượng lớn cho văn hóa người Cao Bằng. Không những vậy ngôi chùa này còn là địa điểm được thành lập với mục đích khẳng định chủ quyền dân tộc, người Việt Nam tại biên giới.

Lịch sử

Chùa được khởi công xây dựng vào ngày 15/6/2013 và chính thức khánh thành ngày 15/12/2014, chỉ trong vòng 1 năm rưỡi đã hoàn thiện các hạng mục quan trọng như cổng Tam quan, điện Tam Bảo, lầu chuông và vườn La Hán. Ở vị trí chùa tọa lạc có thể nhìn ngắm những cánh đồng lúa, dòng nước trắng xóa của thác Bản Giốc hùng vĩ giữa núi non mây trời trùng điệp.

Việc dựng nên chùa Trúc Lâm Bản Giốc không chỉ nhằm phục vụ sinh hoạt Phật sự mà còn là biểu tượng tinh thần của sự giao hòa giữa thiên nhiên và văn hóa Việt, nơi tôn vinh các anh hùng dân tộc như Nùng Trí Cao – vị tướng Nùng có công bảo vệ biên cương

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Ngôi chùa được thiết kế theo lối kiến trúc thuần Việt với kết cấu gỗ lim, vật liệu gạch ngói cổ truyền, mái đao truyền thống, hệ thống câu đối bằng tiếng Việt. Chùa được xây dựng với đầy đủ các hạng mục: Tam quan, khuôn viên Tượng Quan Âm Bồ Tát, Tòa Tam Bảo, Nhà thờ Tổ, đền Mẫu thờ Việt Nam Triệu Tổ Hùng Vương, Đức Thánh Trần, vườn địa đàng, vườn tượng La Hán, đền thờ anh hùng Nùng Trí Cao - một nhân vật, biểu tượng văn hóa thế kỷ 11 tại Cao Bằng, người có tài thao lược quân sự và ngoại giao, có công lớn trong việc gìn giữ bảo vệ biên cương phía Bắc của Tổ quốc Việt Nam. Điểm nhấn của ngôi chùa là lầu chuông Đại hồng chung Thiên Bảo bằng đồng nặng 1,5 tấn.

Vị trí “trấn ải” biên cương: Là ngôi chùa đầu tiên được xây dựng ngay sát biên giới phía Bắc Việt Nam, cách thác Bản Giốc chỉ khoảng 500 m, vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh, vừa mang ý nghĩa khẳng định chủ quyền nơi biên cương.

Phong cảnh hùng vĩ, sơn thuỷ hữu tình: Lưng tựa vào dãy núi Phia Nhằm, mặt hướng ra dòng thác Bản Giốc – thác nước hùng vĩ bậc nhất Đông Nam Á – tạo nên “bức tranh” thiên nhiên không gì sánh bằng.

Kiến trúc Trúc Lâm kết hợp Bắc Bộ truyền thống: Theo hệ phái Trúc Lâm Yên Tử, chùa có cổng Tam quan ba cửa, điện Tam Bảo, lầu chuông, nhà Mẫu… mái chồng diêm, khung gỗ, sân lát đá, hòa quyện giữa thiền viện và đền chùa Bắc Bộ.

Quần thể công trình hoành tráng trên 3 ha: Bao gồm vườn La Hán, đền thờ Thánh Mẫu, tượng anh hùng dân tộc (Như Nùng Trí Cao), cùng hệ thống giảng đường, tăng đường – tất cả quy mô, khang trang, đáp ứng cả tu học lẫn tham quan.

Điểm “săn mây” lý tưởng: Với vị thế cao gần thác, sáng sớm dễ gặp mây giăng, sương khói mờ ảo – trải nghiệm tĩnh lặng hiếm có giữa đỉnh non cao.

Không gian thanh tịnh giữa tiếng thác: Dù nằm sát dòng thác dữ dội, khuôn viên chùa vẫn giữ được sự yên ả, khi tiếng chuông ngân hòa với tiếng thác đổ xa xa đưa tâm hồn về chốn tĩnh lặng.

Liên kết du lịch văn hóa – thiên nhiên: Chỉ cách động Ngườm Ngao, hồ Thang Hen, bản làng dân tộc vài cây số, thuận tiện kết hợp hành hương và khám phá các di sản tự nhiên, văn hóa vùng cao.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Phố Cũ

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Phố Cũ tọa lạc giáp 3 mặt đường phố, nằm gần cuối đường Phố Cũ, phường Hợp Giang (Thành phố). Trải qua bao thăng trầm lịch sử, ngôi chùa không còn nguyên vẹn gốc tích như xưa mà đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần và nội dung thờ tự tín ngưỡng cũng được bổ sung, thay đổi cho đến ngày nay. Chùa Phố Cũ được dựng trên diện tích mặt bằng với quy mô khá lớn so với các chùa, miếu ở Cao Bằng.

Lịch sử

Xuất xứ của ngôi chùa bắt đầu từ một ngôi miếu nhỏ được dựng lên vào đời vua Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3 năm 1679 trên nền đất hiện tại.

Xưa kia, các đoàn thương gia của người Hoa sang giao lưu buôn bán thường dừng chân nghỉ ngơi ở đây; sau nhiều lần, họ linh nghiệm rằng, chính vùng đất này đã giúp họ vượt qua khó khăn, gặp nhiều may mắn là nhờ có Quan Vân Trường, một vị tướng tài ba thời Tam quốc của Trung Quốc hiển thánh cưu mang và lập nên miếu thờ để ghi nhớ công ơn với tên gọi là miếu Quan Đế. Thời nhà Nguyễn, khởi đầu từ vua Gia Long (1802 - 1820) đến các vị vua kế tiếp, miếu được sửa sang, xây dựng lại theo phong cách mới và được gọi là chùa với chức năng thờ “Tiền thánh, hậu Phật”. Chùa Phố Cũ vì vậy mà mang đậm nét dấu ấn kiến trúc nhà Nguyễn, gian tiền đường có ghi Thành Thái bát niên, gian trung đường ghi Bảo Đại nguyên niên. Chùa còn lưu lại được 5 tấm bia đá, gồm: bia Gia Long (1814), bia Minh Mạng (1825), bia Tự Đức (1858), bia Tự Đức (1876), bia Thành Thái (1893) ghi lại công đức tu sửa chùa.

Trải qua thời gian dài chùa mai một xuống cấp, năm 1945, nhân dân địa phương quyên góp trùng tu, xây thêm lầu ở hai cung chính, kiến trúc hoa văn kiểu hoa thị, đắp rồng chầu thời nhà Nguyễn. Sau khi đền thờ Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở Phố Thầu không còn nữa, nhân dân đã chuyển sang thờ tại chùa Phố Cũ.

Sau chiến tranh năm 1979, chùa bị phá hoại, các loại đồ thờ bị xáo trộn, một số được chuyển đến đền Ngọc Thanh, còn lại được giữ tại chùa như: hương án cao 1,2 m, dài 1,85 m, rộng 1,6 m được sơn son thiếp vàng, có chạm trổ mặt hổ và các vân xoắn. Trải qua thời gian dài và ảnh hưởng chiến tranh nhưng hương án vẫn còn nguyên vẹn vẻ cổ kính của nó; bên cạnh đó còn giữ được ngai thờ chạm đầu rồng, tay kiệu, lâu, bài vị, mâm bồng, cây nến và một số hiện vật bằng sứ (bát hương, lọ hoa).

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Hiện tại, đến với chùa Phố Cũ, từ ngoài cổng đi vào có 2 bức tượng to 2 bên, tượng Quan Thánh Đế Quân ở bên trái và tượng Văn Xương Đế Quân ở bên phải. Cửa chính có bức hoành phi khắc chữ nổi trên tường ghi ba chữ Hán “Hiển Thánh Cung”. Gian bên phải thờ các vị Nhị Thập Bát Tú, bàn thờ của Hiếu Khương Hoàng Hậu, bàn thờ Đức Thánh Trần. Tại gian chính cung, ở giữa là bệ thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, các vị thần thiên đình và hạ giới; bên trái thờ Đức Thánh hiền, bên phải thờ Đức Ông.

Từ đó đến gian hậu cung được nối bởi một hiên, bên phải hiên có gác chuông. Hậu cung có 4 cửa ra vào bằng gỗ, mỗi cánh cửa đều có rồng đắp nổi trong khung hình chữ nhật, dưới khung là hoa cúc đắp nổi màu đẹp nền nã. Trong gian hậu cung gồm 3 cấp thờ: cấp thờ ở vị trí cao nhất là thờ Phật Tam Thế Chương Phật, gồm 3 pho tượng ngồi xếp bằng trên các tòa sen nhiều cánh. Cấp thờ thứ hai thấp hơn có đức Phật A Di Đà; cấp thứ ba là các tượng phật Thích Ca Mâu Ni, A Nan Tôn Giả, Ca Diếp Tôn Giả.

Bên cạnh những giá trị văn hóa, tín ngưỡng, chùa Phố Cũ còn mang giá trị lịch sử cách mạng. Tại đây, ngày 22/8/1945, đông đảo nhân dân các dân tộc thị xã Cao Bằng tuần hành, thị uy, biểu dương lực lượng cách mạng trên các trục đường phố, sau đó hội tụ về sân chùa tổ chức cuộc mít tinh rầm rộ với quy mô lớn để làm lễ công bố ra mắt UBND lâm thời tỉnh Cao Bằng và thành lập UBND lâm thời Thị xã. Đây là sự kiện chính trị trọng đại lật đổ tầng lớp thống trị tay sai, phong kiến, thực dân, giành chính quyền về tay nhân dân, chính quyền cách mạng chính thức ra đời.

Chùa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh ngày 31/12/2002. Lễ hội chùa Phố Cũ được tổ chức vào ngày 2/2 âm lịch hằng năm. Nhân dân địa phương tổ chức rước kiệu, mổ bò, mổ lợn dâng hương tế lễ; có năm còn bày mâm ăn uống chung làm cho không khí hội chùa đầu xuân càng thêm tưng bừng, đoàn kết, đông vui. Hiện nay, chùa có Ban Quản lý để bảo quản cơ sở thờ tự và phục vụ người dân, khách lữ hành đến dâng hương cầu phúc, cầu lộc.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: 111 Phố Cũ, P. Hợp giang, Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Đà Quận - Viên Minh Tự

freSy with passion

Giới thiệu

Cao Bằng là vùng đất có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa và cách mạng, phong cảnh núi non hùng vĩ cùng nhiều di tích lịch sử nổi tiếng. Đền, chùa nơi đây gắn liền với quá trình phát triển lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, trở thành niềm tự hào của Non nước Cao Bằng. Trong đó, quần thể di tích Đà Quận, xã Hưng Đạo (Thành phố), nơi lưu giữ đôi chuông cổ được công nhận là Bảo vật Quốc gia có giá trị rất lớn về mặt lịch sử và văn hóa.

Quần thể di tích Đà Quận bao gồm 3 di sản văn hóa vật thể được xếp hạng, đó là chùa Viên Minh, đền Quan Triều (đều được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh vào năm 2008) và đôi chuông “Thần chung” được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2016.

Lịch sử

Chùa Đà Quận (chùa Viên Minh) có từ thời Lý, vì trong chùa có hai câu đối như sau:


Viên Minh thắng tích hưng tiền Lý
Đà Quận thần chung chú Hậu Lê

Tạm dịch:


Thắng tích Viên Minh được khởi dựng trước, vào thời Lý
Chuông thần Đà Quận được đúc sau, vào thời Lê

Đôi câu đối này, như nghĩa của nó, cũng là phản ánh truyền ngôn trong dân gian về lịch sử ngôi chùa. Chùa là một quần thể hoàn chỉnh, kiến trúc thống nhất mở đầu bằng tam quan và kết thúc bằng gác chuông. Kiến trúc trang trí ở đây lấy cái ý: “sắc sắc không không của Phật giáo làm gốc”. Đối diện với chùa là đền Quan Triều.

Tương truyền, đền Quan Triều được xây dựng từ thời nhà Lý, đời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175). Trải qua thời gian và do biến cố của lịch sử, đền đã bị hoang phế hoàn toàn, đến khi nhà Mạc lên đất Cao Bằng đóng đô đã cho trùng tu lại, nay chỉ còn nền móng cũ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhân vật lịch sử của Di tích lịch sử văn hóa đền Quan Triều là Dương Tự Minh, người dân tộc Tày, quê ở đất Bản Danh, xã Quan Triều, phủ Phú Lương (đạo thừa tuyên Thái Nguyên). Dương Tự Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có cha là quan châu mục, thủ lĩnh một đội dân binh Tày, từng đánh trận Ung Châu, trận sông Như Nguyệt, một võ quan của triều đình nhà Lý ở đất Bản Danh, xã Quan Triều, phủ Phú Lương, nay là xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương (Thái Nguyên).

Làm quan phủ, Dương Tự Minh được muôn dân kính trọng bởi sự thanh liêm và đức độ. Với chính sách “nhu viễn” và mối thân tộc ràng buộc, một miền biên cương rừng núi trập trùng nơi các đầu mục Tày, Nùng trấn giữ, nơi tiếp giáp với nhà Tống nhờ tay Tự Minh mà triều đình Lý có thể trị quản. Nhưng sau đó, triều đình rối ren, quan lại lộng quyền, Dương Tự Minh vì lòng chính trực mà bị gian thần trả thù. Dương Tự Minh bị vua Anh Tông đày đi nơi rừng sâu, nước độc ở chân núi Đuổm, phủ Phú Lương.

Vị chủ tướng oai hùng năm xưa trở thành “ông già núi Đuổm”, nhưng chính cái tên hiền lành đơn sơ ấy cùng với những kỳ tích năm xưa mãi mãi khắc sâu danh tiếng anh hùng Dương Tự Minh trong lịch sử. Khi hai vợ chồng ông qua đời (ông và công chúa Thiều Dung), triều đình cho lập đền miếu để thờ ông và được truy phong là Trung đẳng thần. Ở Cao Bằng cũng lập đền thờ Dương Tự Minh (đền Quan Triều) ở xã Xuân Lĩnh, châu Thạch Lâm (tức xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng ngày nay) và đã được phong Mỹ tự: “Quan Triều - Hồng Liên công chúa thông diệu linh cảm, trợ quốc trấn biên, hoài phục tụy lĩnh, phụng công vĩ liệt đại vương”.

Chùa Viên Minh là một trong ba ngôi chùa cổ nhất của tỉnh, giá trị lịch sử lâu đời ấy được khắc ghi tại đôi chuông đang hiện diện tại đây. Năm 1993, đôi chuông này có giá trị nghệ thuật điêu khắc. Với những giá trị đặc sắc, năm 2016, đôi chuông được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia. Nội dung bài minh trên Bảo vật Quốc gia cho chúng ta biết, nguyên vật chuông chùa Viên Minh được đúc năm Càn Thống Tân Hợi (1611) và ngôi chùa là một “cổ danh lam”.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Viên Minh xưa có kiến trúc hình chữ “Đinh”, hướng phía Tây-Bắc, bao gồm: nhà đại bái, hay còn gọi là tiền đường, bên trong là trung đường và phật điện dài 5 gian. Các cụ cao tuổi cho biết: ở gian tiền đường có hai bức tượng hộ pháp cao lớn uy nghi, bố trí hai bên tả hữu. Dọc hai bên hành lang gian trung đường có đặt hệ thống tượng thập bát la hán, bên trong là bệ tượng nghìn tay, nghìn mắt. Tại nơi trung tâm chính diện có đặt bệ thờ tam cấp, vị trí cao nhất là ba bức tượng tam thế tượng trưng cho ba kiếp: quá khứ, hiện tại và tương lai; vị trí thứ hai là các tượng Thích ca với nhiều thế ngồi thiền; sau cùng là tượng Thích ca sơ sinh và tòa cửu long với 9 con rồng vây quanh. Trên bệ này có đặt bát hương lớn để dâng hương, tế lễ nơi cửa phật.

Ngôi chùa Viên Minh hiện nay được đầu tư tôn tạo trên nền đất cổ xưa, có sự thay đổi vị trí đặt các bệ tượng. Các gian tiền đường, trung đường xây bằng gạch, mái lợp ngói âm dương, lưỡng long chầu nguyệt; trước cửa chùa có ghi ba chữ: “Viên Minh Tự”. Hiện vật trong Chùa gồm có: ba pho tượng phật, một tượng phật bà Quan thế âm Bồ tát ngồi thiền, một tượng nghìn tay, nghìn mắt.

Hầu hết các loại tượng này đều nhỏ và mới được đưa vào chùa cùng với bốn câu đối. Ngôi chùa đã được được xếp hạng Di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 2488/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 11 năm 2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng.

Đặc biệt, trong chùa có hai quả chuông đồng cổ đúc từ năm 1611, được xếp hạng di tích nghệ thuật cấp quốc gia, theo Quyết định số 2861-QĐ/BT, ngày 04/9/1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin và được công nhận là Bảo vật

quốc gia theo Quyết định số 2496/QĐ-TTg, ngày 22/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ. Chuông chùa Đà Quận được coi là chuông thần, hay thần chuông thuộc loại lớn nhất ở Việt Nam. Một chuông đặt ở Chùa Viên Minh, một đặt ở

đền Quan Triều. Trên chuông có khắc bài minh chuông bằng chữ Hán, ngợi ca cảnh trí sơn thủy, hữu tình Châu Thạch Lâm, Đà Quận; vẻ đẹp trầm mặc chùa Viên Minh đối diện đền thờ Dương Tự Minh, ngân vang chuông thần ngày đêm

và việc trung trùng tu, tôn tạo ngôi chùa; khắc ghi công lao Khanh hiền họ Lê đã giúp thánh chúa Nhà Mạc xây dựng, tôn tạo nhà chùa.

Lễ hội chùa Viên Minh được tổ chức từ đêm mùng 8 đến ngày mùng 9 tháng giêng âm lịch hàng năm. Phần lễ dâng hương, cúng tế được tiến hành từ tối mùng 8. Phần hội cũng có những hoạt động phong phú, sôi nổi với các trò

chơi dân gian như: tung còn, đánh đu,... và các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể thao sinh động vui tươi trong những ngày đầu xuân. Hoạt động của nhà chùa đã thu hút đông đảo Nhân dân địa phương và khách lữ hành du lịch đến dâng hương, cầu phúc, cầu lộc, cầu an, mọi sự thuận lợi, hanh thông, may mắn.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Đà Quận, xã Hưng Đạo, thành Phố Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Đống Lân

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Đống Lân tọa lạc ở xã Hưng Đạo (Thành phố) là ngôi chùa có lịch sử lâu đời, được kiến tạo từ thời Lê - Mạc. Chùa được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1997.

Lịch sử

Chùa Đống Lân nằm trên gò Đống Lân (tiếng Tày là Đoỏng Lân), ở phía tây bắc thành phố Cao Bằng. Nguồn gốc tên “Đống Lân” có nhiều giả thiết, gắn với những sự tích lịch sử qua nhiều thời kỳ như sự tích Thục Phán tổ chức cuộc thi “Chín chúa tranh vua” (có nhiều địa danh khác gắn với sự tích này như: Cánh đồng Tổng Chúp, cây đa Cao Bình, đôi guốc đá ở Bản Thảnh, thuyền úp ở Khau Lừa). Đống Lân là nơi chúa đi lấy trống đồng về đến đây mệt ngủ say, chuột cắn dây trống, trống lăn xuống đồi kêu vang cả một vùng, các chúa khác tưởng chúa đi lấy trống đã thắng nên bỏ dở cuộc thi nên không ai thắng. Tổng Lằn là trống lăn, gọi chệch là Đống Lân. Có giả thiết Đống Lân là chùa nằm trên gò con Lân.

Dưới thời nhà Lý (cuối thế kỷ XI), chùa Đống Lân được xây dựng để thờ Phật. Từ năm Tân Hợi niên hiệu Càn Thống 19 nhà Mạc, hoàng hậu nhà Mạc cho xây chùa theo hình chữ đinh, có hai bên hành lang và hậu đường, tăng phòng. Sau chùa là Ly cung của nhà Mạc. Chùa là nơi để hoàng hậu, công chúa tụng kinh niệm Phật.

Trước khi chùa được xây dựng, tại gò Đống Lân có đền thờ Trần Quý, Trần Kiên. Theo “Cao Bằng thực lục” có ghi chép nhiều chi tiết về nguồn gốc và tài năng đặc biệt của anh em Trần Quý, Trần Kiên. Cha của hai ông là Trần Triệu vì lấy được vợ tiên nên hai con trai được truyền cho nhiều phép lạ. Khi đến tuổi trưởng thành, mẹ tiên phải quay về trời, cha cũng bỏ vào núi cầu học đạo tiên, hai anh em Trần Quý, Trần Kiên ghi nhớ lời dặn dò của cha mẹ, mang kiếm đi khắp trong vùng tìm diệt yêu quái, trừ hại cho dân. Nhớ ơn công đức hai chàng trai, nhân dân lập miếu xuân thu phụng tự. Hai vị ấy, trải qua các triều vua đều có sắc phong. Đến triều Lê, Trần Kiên được phong làm Cai Cộng Đại Vương, hạ đẳng thần; Trần Quý là Đống Lân Đại Vương, Trung đẳng thần.

Trải qua biến cố của lịch sử, chùa Đống Lân nhiều lần bị tàn phá, hư hại nặng, sau đó được tu sửa. Năm Thiệu Trị (1841-1847) nhà Nguyễn, ngôi chùa được dựng lại toàn bộ. Nơi thờ Trần Quý - Trần Kiên được thờ riêng ở một ngôi miếu nhỏ sát hành lang phía bên phải chùa, còn thờ phật ở gian chính điện. Thời kháng chiến chống Pháp, năm 1950, chùa một lần nữa bị tàn phá.

Ngoài ra, theo nguồn tư liệu cung cấp của một số cụ cao tuổi ở xã Hưng Đạo, trước đây trong chùa còn có bát hương thờ Thạch Sanh. Đây là một nhân vật trong truyền thuyết của người dân tộc Tày. Thạch Sanh chém chết chằn tinh, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Ngày 15/1/1997, chùa được UBND tỉnh cấp Bằng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Năm 2004, chùa được nhà nước cấp vốn đầu tư tôn tạo ngôi tam bảo, bổ sung nhiều tượng Phật, cải tạo khuôn viên chùa. Tuy nhiên, kiến trúc ban đầu của chùa không còn được giữ lại nguyên vẹn. Các hiện vật như: chuông, tượng phật, câu đối…, từ xưa không còn giữ được. Chỉ có những hiện vật mới được các phật tử cung tiến sau này.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Đống Lân hiện nay có khuôn viên khá rộng. Cổng tam quan được xây dựng vững chãi, trang trọng. Nhìn từ ngoài vào thấy dòng chữ “Từ bi”, nhìn từ trong ra thấy dòng chữ “Hỷ xả”.

Chùa gồm nhà thờ chính với 5 gian tiền đường và một gian chính điện. Ngoài ra còn có một nhà thờ tổ (3 gian). Mái chùa lợp ngói máng, có trang trí lưỡng long chầu nguyệt. Từ sân chùa phải qua 9 bậc thềm mới lên đến lớp kiến trúc đầu tiên là tiền đường (nhà bái đường). Các cửa đều xây theo hình cuốn vòm.

Tiền đường rộng rãi, cao thoáng, gồm 5 gian. Gian giữa đặt một bệ thờ có bày tượng phật quan âm nghìn mắt, nghìn tay. Gian bên phải là ban thờ Đức Thánh Trần Quý - Trần Kiên và đặt tượng Đức ông. Gian bên trái là ban thờ Thạch Sanh. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng cách quá cảnh là một khoảng trống dùng để lấy ánh sáng.

Gian chính điện (gian tam bảo) có hai lớp bệ thờ. Lớp cao nhất giáp với mái chùa đặt 3 pho Tam thế tượng trưng cho chư Phật thuộc về 3 đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Ba pho Tam thế có kích thước và hình dáng giống nhau được đặt ngồi trên tòa sen. Lớp bệ thờ thứ hai có 3 pho tượng cùng dãy gọi là Di đà tam tôn. Ngồi giữa là tượng Phật A di đà được tạc khá lớn. Hai bên là các tượng Bồ tát, tượng Thánh tăng, được sắp thành hàng từ thấp lên cao, uy nghi, trang nghiêm. Trên hai cột chính của gian chính điện có hai câu đối:


Thiên niên công đức truyền tam bảo
Nhất niệm minh tâm tự cửu thiên

Tạm dịch:


Ngàn năm công đức truyền tam bảo
Một cái niệm thấu chín tầng mây

Trong sân chùa có đặt tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát bằng cẩm thạch trắng cao 3m tay cầm bình nước cam lộ. Phía sau nhà thờ chính là điện thờ mẫu với ba ban thờ: ban Thánh mẫu (chính điện), ban Sơn trang, ban Trần Triều. Phía trên điện thờ chính có hình tuợng đôi Thanh xà - Bạch Xà vắt ngang.

Năm 2007, được sự nhất trí của UBND tỉnh, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cắt cử sư về trụ trì tại chùa, phục vụ tự do tín ngưỡng của nhân dân. Chùa là nơi để các tín đồ Phật giáo nhiều nơi trong tỉnh đến lễ Phật vào ngày mùng Một, ngày Rằm hằng tháng.

Hội chùa vào ngày mùng 8 tháng Giêng âm lịch hằng năm với nhiều hoạt động: tụng kinh niệm Phật, xóc quẻ cầu phúc, cầu tài, thắp hương hái lộc, tổ chức các trò chơi dân gian…, thu hút khách thập phương đến trẩy hội đông vui.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xóm Hồng Quang 2, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Trúc Lâm Tà Lùng

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Trúc Lâm Tà Lùng được xây dựng tại chân núi Phia Khoang, thị trấn Tà Lùng, huyện Phục Hòa trên khu đất có diện tích 5.300m2, nằm cách cửa khẩu Quốc tế Tà Lùng khoảng 1km.

Lịch sử

Chùa nằm ở chân núi Phia Khoang, thị trấn Tà Lùng, huyện Phục Hòa, chùa tọa lạc trên khu đất rộng 5.300m², cách cửa khẩu Quốc tế Tà Lùng khoảng 1km. Từ đây, du khách có thể phóng tầm mắt sang phía bắc biên giới, đồng thời hưởng không khí mát lành của vùng núi cao Cao Bằng.

Lễ khởi công (1/12/2014): Công trình được chính thức động thổ vào sáng 1/12/2014, do UBND tỉnh Cao Bằng cùng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh tổ chức. Buổi lễ có sự tham dự của Hòa thượng Thích Thiện Nhơn – Chủ tịch HĐTS T.Ư GHPGVN, lãnh đạo sở ngành và đông đảo nhân dân bản địa

Khánh thành giai đoạn 1 (27/11/2015): Chỉ sau gần một năm xây dựng, giai đoạn đầu gồm các hạng mục chính như cổng Tam quan, điện Tam Bảo và lầu chuông đã được hoàn thiện, khánh thành ngày 27/11/2015 (16/10 Ât Mùi), mở cửa phục vụ Phật tử và du khách.

Ý nghĩa lịch sử – văn hóa: Việc xây dựng chùa Trúc Lâm Tà Lùng không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, H’Mông, Dao trong vùng mà còn khẳng định chủ quyền văn hóa nơi biên cương, tạo thành “cột mốc tâm linh” mới trên bản đồ Phật giáo Cao Bằng.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa được bố trí chính điện thờ Phật, hai dãy hành lang thờ Thập bát la hán, sau chính điện là nhà thờ Tổ, thờ Mẫu, thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, xung quanh trồng cây xanh.

Chùa theo hệ phái Trúc Lâm Yên Tử, kết hợp với kiến trúc chùa Bắc Bộ truyền thống: cổng tam quan ba cửa, điện Tam Bảo, nhà Tổ, lầu chuông, mái chồng diêm, khung gỗ lim và sân lát đá. Nguyên vật liệu chủ yếu là gạch ngói cổ truyền và gỗ lim bền vững.

Gian Tam bảo với bộ tượng làm bằng gỗ quý là điểm đặc biệt của chùa. Đây là bộ tượng được chạm khắc tinh xảo bởi các nghệ nhân lành nghề. Sau khi các hạng mục còn lại của chùa hoàn thành, bộ tượng sẽ được phủ sơn đúng theo lối sơn tượng cổ truyền. Hàng tượng hai bên Tam Bảo. Sau khi hoàn thành, chùa Trúc Lâm Tà Lùng sẽ là địa chỉ tâm linh đặc biệt trên vùng biên Đông Bắc. Theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam, chùa đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tâm linh chính đáng của nhân dân các dân tộc sinh sống tại nơi xa xôi Tổ quốc, góp phần đẩy lùi các hủ tục mê tín.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: chân núi Phia Khoang, thị trấn Tà Lùng, huyện Phục Hòa, thành phố Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Sùng Phúc

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Sùng Phúc (nguyên là chùa Sùng Khánh), có tên chữ là Sùng Phúc Tự, thuộc tổng Lệnh Cấm, nay là thị trấn Thanh Nhật, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng. Cách trung tâm Tỉnh Cao Bằng khoảng 70 km.

Lịch sử

Ban đầu, ngôi chùa có tên là chùa Sùng Khánh được xây dựng từ thời vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) trên đỉnh núi Pò Kiền (tiếng Tày, Nùng địa phương gọi là Pò Kén), phía sau làng Nà Én, xã Lệnh Cấm. Đến đời vua Lê Hiến Tông, năm Cảnh Hưng thứ 43 (1782), chùa được di dời về dựng trước làng Huyền Du như vị trí hiện tại và đổi tên thành chùa Sùng Phúc với hàm nghĩa sâu xa là suy tôn, sùng bái, quý trọng phúc đức, hướng mọi người tới chân thiện, tránh xa tà ác. Trải qua bao biến thiên lịch sử của các triều đại, chùa Sùng Phúc được tu tạo nhiều lần và bổ sung thêm nội dung thờ tự của các nhân vật lịch sử có công với đất nước.

Tổng thể khuôn viên chùa hình chữ nhật theo hướng Bắc - Nam, cổng khuôn viên hướng Nam; trong khuôn viên có chùa Sùng Phúc, hai miếu thờ và một bia đá. Chùa có kiến trúc hình chữ nhị, được xây dựng bằng gạch, mái lợp ngói máng, hoa văn trang trí đơn giản mang dấu ấn nhà Lê. Chùa thờ Phật giáo, gian hậu cung có tượng Phật Quan Âm, phía trước đặt bát hương; các tượng phật khác và một số đồ thờ nay đã không còn. Gian tiền đường thờ thần nàng Vi Đồ, chính là bà Nguyễn Thị Duệ, quê làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh (Hải Dương). Năm 10 tuổi, bà cùng gia đình theo nhà Mạc chạy lên Cao Bằng và đã giả trai theo học Trường Quốc học Bản Thảnh, Cao Bình (Hòa An). Năm 1616, bà thi đỗ Tiến sĩ - nữ Tiến sĩ duy nhất của khoa bảng phong kiến Việt Nam. Sau đó, Nguyễn Thị Duệ được vua Mạc Kính Cung mời vào triều đình để dạy các phi tần, cung nữ. Khi quân Trịnh - Lê tiến đánh Cao Bằng, nhà Mạc thất thủ, Nguyễn Thị Duệ vào chùa Sùng Phúc ẩn náu. Tại đây, bà giảng dạy kinh thư, truyền bá đạo lý nhà phật cho dân chúng, có công lớn với nhà chùa và được nhân dân mến mộ kính phục. Khi phát hiện ra bà, quân sĩ đưa bà về Thăng Long, trước phẩm chất và sự khí khái của bà, triều đình nhà Lê rất trân trọng và mời vào cung đình làm quản giáo, truyền dạy đạo lý cho con cháu các bậc vương giả.

Ngôi miếu dựng ở góc Đông Bắc của khuôn viên Thành hoàng chính thờ tù trưởng Hoàng Nghệ, người có công lớn chỉ huy quân chặn đánh, bắt sống Thoát Hoan và A Thai đang trốn theo đường bộ qua châu Tư Lang (Hạ Lang ngày nay), sau khi bị nhà Trần đánh bại. Miếu Thành hoàng ở góc Tây Nam khuôn viên thờ nhân thần Nguyễn Đình Bá, quê ở phủ Khoái Châu (Hưng Yên) giữ chức Đốc đồng Cao Bằng, thời hậu Lê là một vị quan thanh liêm dẹp giặc, cứu dân lành, được triều đình phong sắc Đai vương, trung đẳng thần, nhân dân tôn trọng, quý mến. Đến nay, chùa Sùng Phúc còn lưu giữ được 2 tấm bia đá, 1 tấm có niên đại Cảnh Hưng năm thứ 43 (1782) và 1 tấm có niên đại Thành Thái Ất Tỵ năm 1905. Nội dung 2 tấm bia nêu khái quát lịch sử hình thành ngôi chùa và danh sách những địa phương, cá nhân có công đức xây dựng, tu sửa chùa. Chùa còn có 3 sắc phong của 3 đời vua triều Nguyễn, đó là Đồng Khánh, Duy Tân và Khải Định.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Theo các cụ cao niên, trước đây trong chùa Sùng Phúc có đầy đủ các loại tượng và đồ thờ: tượng Quan Âm, tượng Thành Hoàng, tượng Nam Tào, tượng Bắc Đẩu và 7 loại binh khí... Trong chùa còn một tấm bia đá khắc dưới thời vua Lê Cảnh Hưng năm thứ 43. Tấm bia có nội dung bằng chữ Hán, ghi lại lịch sử và việc trùng tu chùa, truyền thống bảo vệ Tổ quốc cùng sự hiển linh chở che của vị thần bảo hộ đã đem lại cuộc sống ấm no thái bình cho nhân dân.

Hiện, chùa Sùng Phúc có một số thay đổi về các đồ thờ tự và sắp xếp lại các pho tượng ở gian hậu cung, ngay trong sân chùa phía bên trái từ cổng vào dựng thêm 1 tháp chuông, treo 1 chiếc chuông đồng nhỏ do Công ty cổ phần Khoáng sản Tây Giang cung tiến. Gian bái đường đặt tượng Phật bà Quan Âm bằng đá trắng; gian hậu cung có 3 bệ thờ, bệ thờ chính là 3 lớp tượng phật bằng đá trắng mới được cung tiến, gồm: phía trên cùng là 3 pho tượng Tam thế, tượng trưng cho nhà phật quá khứ, hiện tại và tương lai; lớp thứ 2 đặt pho tượng Thích ca mâu ni; lớp thứ 3 chính giữa là toàn Cửu long (Thích ca sơ sinh), hai bên là Phổ hiền Bồ tát và Văn thủ Bồ tát. Bệ thờ phía bên trái là tượng Đức ông, bên phải đặt tượng Đức Thánh hiền.

Lễ hội chùa Sùng Phúc được tổ chức vào ngày 15 đến hết ngày 16 tháng Giêng âm lịch hằng năm, thu hút đông đảo nhân dân địa phương trong tỉnh và du khách thập phương nô nức du xuân, trẩy hội. Về phần lễ, sau khi chuẩn bị hoàn chỉnh các mâm lễ vật, lợn quay; lễ rước kiệu Quan âm Bồ Tát, kiệu Thành hoàng bắt đầu từ miếu Thổ công qua các đường phố chính dẫn đến chùa. Phần lễ dâng hương tiến hành theo nghi thức truyền thống, chủ tế là cụ ông cao niên có uy tín trong cộng đồng dân cư thắp hương, đọc văn tế báo cáo với trời đất, tổ tiên, Thành hoàng và các bậc tiên liệt tại vị trong chùa về tình hình kinh tế - xã hội năm qua của địa phương; bày tỏ lòng biết ơn Phật tổ và các bậc nhân thần có công với dân, với nước. Mong các bậc tiên liệt và nhà phật phù hộ cho một năm mới an lành, người người mạnh khỏe, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu. Kết thúc phần lễ là phần hội với các trò chơi dân gian kéo co, đẩy gậy, múa rồng, múa lân, võ cổ truyền, tung còn, nhảy bao, hát Then, Hà Lều, Sli Giang… mang đậm bản sắc dân tộc.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, ngày 29/1/1993, Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 68/VH-QĐ xếp hạng chùa Sùng Phúc là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thị trấn Thanh Nhật, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Đền Kỳ Sầm

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Kỳ Sầm tọa lạc trên một quả đồi thấp, sát chân núi Khau Sầm thuộc thôn Bản Ngần, xã Vĩnh Quang (Thành phố). Ngôi đền thờ nhân vật lịch sử, danh tướng Nùng Trí Cao (1025 - 1053), dưới triều vua Lý Thái Tông. Một trong những ngôi đền được nhân dân xây dựng từ lâu và trải qua trùng tu, tôn tạo nhiều lần, có quy mô lớn vào bậc nhất trong các loại hình đền, chùa, miếu trên địa bàn tỉnh.

Lịch sử

Đền được xây dựng trên một khuôn viên rộng, kiến trúc hình chữ “nhị”, mang dáng dấp phong cách kiến trúc thời nhà Nguyễn, có nhà bái đường và hậu cung. Tại nhà bái đường có một ban thờ. Phía trong hậu cung có ba ban thờ, chính giữa thờ Nùng Trí Cao, bên trái thờ mẹ A Nùng, bên phải thờ ba người vợ: Vương Lan Anh, Đoàn Hồng Ngọc, Trần Thị Cẩm. Quá trình gây dựng ngôi đền, với lòng ngưỡng mộ vị dũng tướng, nhân dân đã cung tiến một số đồ thờ quý, như đôi hạc bằng đồng, một số lư hương, chuông đồng…, trong khuôn viên được quy hoạch trồng nhiều cây cảnh bên cạnh các cây đa cổ thụ xum xuê, làm cho ngôi đền thêm trầm mặc, linh thiêng.

Nùng Trí Cao sinh năm 1025, là con của Nùng Tồn Phúc, thủ lĩnh châu Thảng Do. Ngay từ thuở thiếu thời, Nùng Trí Cao là một cậu bé khỏe mạnh, đẹp trai, hiếu động, thông minh lạ thường, học giỏi chữ nghĩa, võ nghệ như bẩm sinh. Năm 1038, Nùng Tồn Phúc chiếm hai châu Vũ Lặc và Quảng Nguyên, lập nên nước Trường Sinh, tự xưng là Chiêu thánh Hoàng đế, lập vợ A Nùng làm Minh Đức Hoàng hậu, cát cứ một phương, án ngữ một vùng biên viễn rộng lớn phía Đông Bắc nước ta. Năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh dẫn đại quân đi dẹp nước Trường Sinh, Nùng Tồn Phúc và con trưởng Nùng Trí Thông bị bắt về kinh đô xử tử. A Nùng và con thứ Nùng Trí Cao chạy đến động Lôi Hỏa, thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) ngày nay. Tại đây, hai mẹ con khẩn trương tập hợp quân sĩ, ngày đêm rèn luyện võ nghệ, xây dựng lực lượng binh đao, ngựa chiến.

Năm 1041, khi đó Nùng Trí Cao 16 tuổi đã cùng mẹ A Nùng dẫn binh từ động Lôi Hỏa chiếm lại châu Thảng Do, lập nên nước Đại Lịch. Triều Lý cử đại quân lên đánh và bắt được Nùng Trí Cao dẫn về kinh đô. Sau khi xem xét, nhận định tình thế, cần trấn yên vùng biên, bảo vệ lãnh địa quốc gia, vua nhà Lý miễn tội cho Nùng Trí Cao và tiếp tục cho quản lý châu Thảng Do; đồng thời, ban cho thẩm quyền cai quản thêm một vùng rộng lớn, gồm các động: Lôi Hỏa, Bình, Bà và châu Tư Lang, sắc phong Nùng Trí Cao làm châu mục Quảng Nguyên. Năm 1043, vua Lý Thái Tông sai người đến châu Quảng Nguyên ban sắc phong cho Nùng Trí Cao chức Thái Bảo, một trong ba tước quan cao cấp nhất triều đình và giao cả đô ấn. Năm 1048, Nùng Trí Cao khởi binh ở động Vật Ác, đánh chiếm châu An Đức, thuộc đất nhà Tống (Trung Quốc) làm căn cứ địa. Hai năm sau (1050), thừa thế binh hùng tướng mạnh, Nùng Trí Cao đánh chiếm động Vật Dương (thuộc đất Tống), rồi xưng vương, lập Nam Thiên Quốc, lấy niên hiệu là Cảnh Thụy. Chiến công kế tiếp chiến công, cương vực bờ cõi rộng mở nhanh chóng. Tuy vậy, Trí Cao vẫn có ý giảng hòa với nhà Tống, năm 1051 cho người đem châu báu, vàng bạc, ngà voi đến biếu cống nhưng bị triều đình Tống khước từ.

Trước tình thế đó, năm 1052, Nùng Trí Cao dẫn 5.000 quân tiến đánh thành Ung Châu và Quảng Châu. Sau khi làm chủ Ung Châu, Trí Cao tự xưng là Nhân Huệ Hoàng đế; đổi niên hiệu là Khải Lịch, quốc hiệu là Đại Nam. Trí Cao ra lệnh phá nhà tù, đại xá tù nhân, mở các kho hậu cần, lương thực của quân Tống phân phát cho dân nghèo. Do đó, lực lượng của Trí Cao phát triển mạnh mẽ.

Năm 1053, nhà Tống cử Địch Thanh - một viên tướng nổi tiếng triều đình dẫn đầu đại quân hùng hổ đi đánh quân Nùng Trí Cao. Lần này, Trí Cao bại trận phải chạy đến vùng đất Đại Lý, thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) ngày nay. Nùng Trí Cao sai Lương Châu về kinh đô cầu viện nhà Lý nhưng không thể cứu vãn nổi tình thế.

Để tưởng nhớ ơn đức của Nùng Trí Cao, nhân dân nhiều nơi lập miếu thờ phụng. Nhà Lý đặc chiếu sắc phong Trí Cao là Khau Sầm Đại Vương và lập đền thờ tại thôn Bản Ngần, xã Tượng Lặc, châu Thạch Lâm (nay là thôn Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, thành phố Cao Bằng). Đền thờ được nhà Lý phong Thượng Đẳng thần, xuân thu nhị kỳ quốc tế; các triều đại sau gia phong mỹ tự: Khau Sầm tế thế, an dân hãn ngoại, ninh thủy trấn dịch, anh nghị quả đoán hiển ứng thùy hưu, hộ quốc an dân Đại Vương. Đền thờ Nùng Trí Cao được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1993.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Khuôn viên ngôi đền khá rộng lớn, trồng rất nhiều cây cổ thụ tạo nên vẻ đẹp tĩnh tại, bình yên. Những hàng cây có lẽ đã sống trăm năm, che bóng mát cho cả ngôi đền, vẽ nên một khung cảnh hiền hòa, dễ chịu. Đi dọc theo lối tam cấp dọc theo hàng cây xanh này, bạn sẽ đến với khuôn viên chính của ngôi đền.

Khu vực bên trong đền Kỳ Sầm Cao Bằng được trang trí lộng lẫy, trang trọng, thể hiện qua các chi tiết chạm trổ công phu, tinh xảo. Ngôi đền chủ yếu sử dụng màu sơn trắng, vàng và đỏ, tạo nên vẻ đẹp nổi bật, đồng thời cũng rất cổ kính. Đến ngôi đền này, ngoài tham quan, tìm hiểu về lịch sử đền và tham gia lễ hội, du khách cũng có thể tìm những góc đẹp để chụp ảnh lưu niệm.

Lễ hội Đền Kỳ Sầm là một trong các lễ hội lớn của tỉnh, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh đến trẩy hội, vui xuân. Từ mùng 9 âm lịch, đền đã tổ chức phần Lễ với nhiều nghi thức truyền thống từ thời xa xưa. Đến mùng 10 âm lịch, du khách sẽ được cầu tài, cầu lộc và tham gia nhiều trò chơi dân gian thú vị khi trẩy hội ở đền Kỳ Sầm. Đây được xem là lễ hội lớn nhất tỉnh Cao Bằng dịp đầu năm. Lễ hội được tổ chức với phần lễ và phần hội. Phần lễ được thực hiện từ tối mùng 9 âm lịch với các nghi lễ truyền thống được khôi phục lại gần giống thời xa xưa. Ngày hội mùng 10 âm lịch hằng năm là dịp để du khách đến dự hội, cầu lộc, cầu tài. Đến lễ hội, du khách được tham gia nhiều trò chơi dân gian: cờ tướng, tung còn, đu tre, đi cà kheo, bịt mắt đập bóng...

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, huyện Hoà An, thành phố Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Đền Hoàng Lục

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Hoàng Lục nằm ở xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng được người dân xây dựng từ thế kỷ XI thờ An Biên tướng quân Hoàng Lục, vị tướng người Tày có công lao to lớn trong công cuộc chiến chống ngoại xâm và gìn giữ biên cương.

Lịch sử

Tương truyền, tướng quân Hoàng Lục là một tù trưởng người Tày, sinh vào thế kỷ XI tại vùng Lũng Đính, châu Thượng Lang (nay là xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng). Là người tài giỏi, am hiểu sử sách, tinh thông binh pháp, 18 tuổi ông đã được cử làm thổ tù cai quản một vùng, được người dân kính trọng.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ hai, thực hiện kế sách “Tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt, tướng Hoàng Lục đem quân đánh vào đất Tống, đột phá nhiều thành trì, đập tan các căn cứ hậu cần phục vụ cuộc chiến xâm lược Đại Việt của giặc. Khi quân Tống tiến vào nước ta, với lối đánh du kích táo bạo, đội quân do ông chỉ huy đã đánh phá phía sau và gây tổn hao nhiều sinh lực địch, góp phần vào chiến thắng chung của cả dân tộc.

Với công lao to lớn đó, ông đã được triều đình phong là An Biên tướng quân và giao trấn giữ một dải biên ải rộng lớn từ Cao Bằng đến tận Lạng Sơn ngày nay. Để ghi nhớ công lao của vị tướng trấn giữ biên cương, khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ ông ngay tại quê hương Lũng Đính.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Đền Hoàng Lục nằm dưới những tán thông xanh trên đỉnh đồi Đoỏng Lình, cách biên giới Việt - Trung chừng 4 km. Đền thờ Hoàng Lục được khởi công xây dựng từ khi nào đến nay vẫn chưa rõ, song kiến trúc còn lại của ngôi đền là hai gian nhà cấp 4 (kiểu chữ nhị), khá rộng với diện tích khoảng 100 m2, cửa đền quay về hướng Nam, mái lợp ngói âm dương. Gian tiền đường và hậu cung được ngăn cách bằng một bức tường dày. Theo các cụ cao niên trong vùng kể lại, trước đây trong đền có tượng Hoàng Lục bằng đồng, hai bên có tượng quan văn, quan võ bằng đất và chuông đồng, hậu cung có nhiều bệ thờ và bát hương, nhưng các hiện vật này đã bị thất lạc. Giá trị còn lại của ngôi đền chính là ở chất liệu xây dựng. Đền được đắp trình tường bằng đất sét trộn với mật mía rất công phu.

Trước đây, lễ hội đền Hoàng Lục được tổ chức 2 lần mỗi năm vào rằm tháng Giêng âm lịch và mùa Thu. Ngày nay, Lễ hội đền Hoàng Lục tổ chức ngày 28/2 âm lịch. Phần hội là các trò chơi như tung còn, múa lân, hát giao duyên…

Năm 2004, đền Hoàng Lục được tỉnh Cao Bằng xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. 4 sắc phong của triều Nguyễn phong cho những người canh giữ đền đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Cao Bằng. Nhiều năm qua, ngôi đền thu hút đông đảo du khách thập phương đến cầu lộc, cầu tài, cầu bình an. Theo quan niệm dân gian, đền Hoàng Lục chính là một trong số “Thập vị Quan Hoàng” theo tín ngưỡng thờ Mẫu.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Đền Dẻ Đoóng

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Dẻ Đoóng còn gọi là đền Giang Động, tọa lạc ngay trên vùng đất của làng Dẻ Đoóng, xã Hồng Việt (Hòa An). Đây là ngôi đền nguyên bản thờ thần đá theo quan niệm tín ngưỡng dân gian “vạn vật linh thiêng” của dân tộc Tày, Nùng Cao Bằng, về sau có thêm chức năng thờ phật, thờ mẫu. Đây là một trong những ngôi đền thiêng được nhân dân địa phương và khách lữ hành ngưỡng vọng, cầu cúng, chiêm bái.

Lịch sử

Tương truyền rằng, xưa kia có một chàng trai nghèo làm nghề đánh cá cần cù, tần tảo ven sông để kiếm sống. Chàng là người có hiếu với cha mẹ, sống chan hòa, khiêm nhường với mọi người trong xóm, được bà con quý mến. Đến ngày giỗ cha, chàng đi ra sông quăng chài với hy vọng sẽ được một mẻ cá để về làm giỗ, nhưng quăng mãi mà không được con cá nào. Lúc nào kéo chài lên cũng chỉ có hòn đá hình hai người; thấy lạ chàng chắp tay cầu khấn: “Nếu là thần thánh, xin cho một mẻ cá về giỗ cha”. Quả nhiên, ngay sau đó, chàng quăng được một mẻ cá đầy. Thấy linh nghiệm, chàng trai lấy hòn đá về lập miếu thờ ở Vò Ban. Vào một đêm mưa to, gió lớn, miếu thờ bị tốc mái, một gắp gianh bay sang đồi Riệt Rì, từ đó nhân dân đã dựng miếu thờ tại đấy. Nhưng đây là địa điểm xa dân cư, đường đi lại khó khăn, xung quanh miếu chật hẹp, không đáp ứng nhu cầu tế lễ đông người nên dân bản đã dựng ngôi đền tại làng Dẻ Đoóng và rước hòn đá thần về thờ. Đến thời nhà Lê, nhà Mạc, đền Dẻ Đoóng được tu sửa lại và đưa tượng phật, tượng mẫu vào ban thờ. Trải qua bao biến thiên của lich sử, ngôi đền mai một và được trùng tu, tôn tạo nhiều lần, tạo nên diện mạo mới cho đến ngày nay.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Tổng thể kiến trúc của đền Dẻ Đoóng theo hình chữ “đinh”, gồm ba gian chạy dọc, mái lợp ngói máng, tường xây bằng gạch địa phương. Trên các bức tường ngăn có trang trí họa tiết mây cuộn rồng bay, hoa lá…, mỗi gian đều có kiểu họa tiết và bố trí theo phong cách riêng.

Gian ngoài cùng hay còn gọi là gian chính điện, gian đại bái. Gian này không đặt tượng, trên quá giang có trang trí khắc họa cảnh sơn thủy hữu tình. Hai bên sảnh có vẽ hai tướng quân hùng dũng đứng nghiêm canh gác với hai con ngựa chiến. Chính giữa gian đặt bệ thờ và bát hương, phía bên phải có treo một chuông đồng nhỏ. Hai bên vách tường bên ngoài còn vẽ hai con ngựa cao lớn, trên ngực chúng có ghi hai chữ “đại mã” bằng chữ Hán. Đây là gian chủ yếu dành cho nhân dân địa phương và du khách đến thắp hương cầu tự.

Gian giữa hay còn gọi là gian trung đường, diện tích khoảng 21,5 m2. Trên quá giang có khắc hai con rồng chầu trăng, thể hiện nội dung đặc tả: lưỡng long chầu nguyệt, rồng cuộn mây. Chính giữa gian có 3 pho tượng quan ông, các quan ông đều đội mũ cánh chuồn, tay cầm cuốn kinh thư giảng đạo. Vách tường bên trái là bệ thờ các pho tượng có hình dáng đang ngồi thiền, vách bên phải có các pho tượng phật, tượng Phật bà Quan Âm có kích thước nhỏ từ 20 - 60 cm.

Gian trong cùng hay còn gọi là gian chính điện hoặc hậu cung có diện tích khoảng 20,44 m2. Đây là gian dùng để cúng tế với các lễ thức trang trọng, uy nghiêm. Bức tường chính giữa xem như bức nền được trang trí hoa văn nho, hoa lan và mây cuốn. Trong gian này đặt 3 bệ tượng 3 bậc, bậc cao nhất và bậc thứ 2 là hệ thống tượng Phật Thích ca mâu ni, bố trí mỗi bậc có 3 pho tượng ngồi trên đài sen. Giữa bệ thứ 2 bố trí pho tượng ngồi có nhiều tay, nhỏ hơn các pho tượng khác. Bệ thứ 3 là tượng thần Di Lặc, biểu tượng thần tài và có đặt bát hương, lọ hoa cạnh đó. Phía bên trái bệ thờ có đặt tượng Đường Tăng ở giữa và tượng thần thiện, ác hai bên. Bên vách tường bên trái đặt ngai thờ hòn đá thần và bát hương cúng tế. Vách tường phía bên phải có 3 pho tượng quan ông và bát hương cầu may.

Lễ hội đền Dẻ Đoóng được tổ chức vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch hằng năm, thu hút đông đảo nhân dân khắp nơi về trẩy hội, cầu phúc, cầu tài, cầu lộc, mong cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao truyền thống dân gian, tưng bừng náo nhiệt ngày xuân.

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, ngôi đền đã chứng kiến các hoạt động của Đảng bộ Cao Bằng, nhiều chiến sĩ cách mạng đã qua đây nương nhờ cửa đền và bàn bạc việc nước. Ngày 15/6/1945, nơi đây tổ chức mít tinh chào mừng thành lập chính quyền cách mạng của tỉnh. Đền Dẻ Đoóng được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh ngày 4/11/2008.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xóm Dẻ Đoóng, thị trấn Nước Hai, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Đền Vua Lê

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Vua Lê nằm ở phía Tây Bắc thành phố Cao Bằng, cách thành phố Cao Bằng khoảng hơn 10 km, thuộc làng Đền, xã Hoàng Tung (Hòa An). Đền thờ Vua Lê Thái Tổ, tương truyền trong đền thờ vọng thanh kiếm và hoàng bào của nhà Vua. Đền vua Lê nằm trong quần thể di tích thành Na Lữ. Đền thờ Vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi Cao Hoàng Đế).

Lịch sử

Đền Vua Lê dựng trên gò Long (tức gò rồng), một gò đất cao phía Bắc thành Na Lữ. Trong thành có 4 gò đất nổi lên được đặt tương ứng với 4 tên: Long, Ly, Quy, Phượng. Theo truyền thuyết và những tư liệu lịch sử ghi lại, Đền Vua Lê vốn là cung điện trong thành Na Lữ. Thành do Cao Biền xây dựng. Đến thế kỷ XI, Nùng Tồn Phúc (cha của Nùng Trí Cao), thủ lĩnh châu Quảng Nguyên tiếp tục xây dựng. Thời Lý Thái Tông niên hiệu Thông Thụy, năm thứ 6, tức năm 1039, Nùng Tồn Phúc tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng đế, đổi tên châu Quảng Nguyên làm nước Trường Sinh; rồi cho xây thành, xây cung điện tại Na Lữ. Tháng 3/1039, Nùng Tồn Phúc bị triều đình nhà Lý tiêu diệt.

Năm 1414, giặc Minh cai trị nước ta, ở Cao Bằng, chúng đặt quan Thái thú cho đóng quân ở gò Đống Lân, thành Na Lữ, bắt nhân dân đóng sưu thuế nặng, đàn áp và hà hiếp, cuộc sống của nhân dân vô cùng cực khổ. Trước tình hình đó, Bế Khắc Thiệu - một hào trưởng giàu có ở Cao Bằng đã chiêu quân đứng lên khởi nghĩa, đồng thời liên kết với Nông Đắc Thái tổ chức đánh giặc, đã giành được thắng lợi sau trận kịch chiến ở Nà Khuổi (tháng 9/1426). Bế Khắc Thiệu xưng là Bế Đại vương, phong cho Nông Đắc Thái là Nông Nguyên soái, đóng ở thành Na Lữ, cho quân tu sửa lập lại cung điện năm 1430.

Năm 1592, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, Mạc Kính Cung chiếm lấy thành Na Lữ lập cung điện. Sau ba đời sinh sống ở Cao Bằng, đến thời Mạc Kính Vũ bị quân Lê - Trịnh đánh bại. Nhà Mạc bỏ cung điện và thành Na Lữ chạy sang Trung Quốc.

Năm Chính Hòa thứ 3 đời Vua Lê Hy Tông, tức năm 1682, quan trấn thủ Cao Bằng là Lê Văn Hải đã tâu xin Vua Lê cho sửa chữa thành Na Lữ cũ làm đền thờ Vua Lê Thái Tổ (Đền Vua Lê hiện nay); lấy áo bào và thanh kiếm thờ ở chỗ ngai vàng.

Trước Cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đền vua Lê là một di tích lịch sử gắn liền với những hoạt động của Đảng trong thời kỳ vận động cách mạng dân tộc, dân chủ. Tại đây, năm 1936, đồng chí Hoàng Đình Giong đã đứng ra thành lập “Đoàn thanh niên phản đế”.

Năm 1995, đền vua Lê được Nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử văn hoá cấp Quốc gia, là nơi tập trung lễ hội, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân trong vùng.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Đền xây theo kiểu hình chữ tam gồm 3 nhà, 7 gian, tường xây bằng gạch vồ, mái lợp ngói máng, cột kèo, hoành phi bằng gỗ. Xung quanh đền xây tường thành dài 600m, trước mặt đền có hai sân rộng khoảng 1.000m2. Đền là nơi tổ chức lễ hội, tập trung sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của nhân dân trong vùng.

Hội đền Vua Lê được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch hằng năm. Ngoài phần lễ được tiến hành ngay từ sáng sớm dưới sự có mặt đông đảo nhân dân trong vùng, phần hội bao gồm các hoạt động văn hóa văn nghệ, trò chơi dân gian như cờ tướng, cờ người, đẩy gậy, kéo co… thu hút đông đảo người dân tham gia.

Đền Vua Lê là di tích có giá trị về mặt lịch sử, giáo dục truyền thống đấu tranh chống quân xâm lược của nhân dân ta, đồng thời là di sản văn hóa có giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật của dân tộc. Đây cũng là nơi khẳng định giá trị tinh hoa văn hóa, niềm tự hào về trang sử truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc ta nói chung và tỉnh Cao Bằng nói riêng.

Ngày 20/4/1995, đền Vua Lê được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Làng Đền, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam

freSy with passion

Tổng hợp từ Internet

Bài viết khác

The ÂN - Working with love
Tài trợ & Đối tác
KHỞI NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: HÀNH TRÌNH TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG
The ÂN - Working with love
The ÂN - Working with love
Tình yêu thương

đến từ khách hàng của freSy!

Nhận tin mới nhất