Việt Nam

[Bản Đồ Tâm Linh] Hương Sen Quanh Lòng Sông La & Chuông Chùa Trên Núi Hồng Lĩnh

Blog


Giữa trầm tích núi Hồng Lĩnh và dòng sông La hiền hòa, Hà Tĩnh ẩn chứa những ngôi chùa cổ kính – dấu ấn của bao triều đại và tâm linh người dân Hà Tĩnh. Từ chùa Hương Tích huyền thoại trên lưng chừng núi, đến chùa Am uy nghi bên bờ sông Ngàn Phố, mỗi mái ngói cong vút, mỗi cột chạm rồng phượng đều ẩn chứa câu chuyện lịch sử và truyền thuyết dân gian. Trong bài viết này, hãy cùng freSy hành hương qua loạt ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Tĩnh, nơi bạn không chỉ dâng hương cầu an mà còn chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiến trúc tinh xảo và cảm nhận phút giây thanh tịnh giữa không gian thiên nhiên hùng vĩ.

Chùa Trúc Lâm Thanh Lương

freSy with passion

Giới thiệu

Nằm yên bình giữa làng quê, đối diện với cánh đồng lúa xanh bát ngát, chùa Trúc Lâm Thanh Lương (xã Phù Lưu, Lộc Hà, Hà Tĩnh) đã trở thành một trong những địa chỉ tâm linh, nơi chứa đựng tinh thần từ bi hỷ xả của người dân.

Lịch sử

Chùa Trúc Lâm Thanh Lương xưa có tên là Thanh Quang Tự do cụ Tổ dòng họ Phạm Nhật khai sáng và tu hành.

Trải qua bao biến thiên thăng trầm của lịch sử, chùa xưa trở thành phế tích. Đến năm 2008, cư sĩ Phạm Nhật Vượng, Phạm Nhật Vũ pháp danh Từ Vân là Hậu duệ của Cụ Tổ khai sơn chùa Thanh Quang về trùng tu lại chùa và cải tên thành Trúc Lâm Thanh Lương Tự. Sau 2 năm thi công, ngày 22/12/2010 ngôi chùa hoàn thành với kiến trúc xưa của chùa miền Bắc nguy nga tráng lệ và xây dựng hoàn toàn bằng gỗ lim.

Mặt chùa quay hướng Nam. Nằm giữa cánh đồng lúa xanh bát ngát, kiến trúc chùa mở đầu với đài Bồ tát Quán Thế Âm an vị giữa hồ nước, quay mặt vào chùa. Qua chiếc cầu nhỏ đến cổng tam quan xây dạng cổ lầu, mặt trước ghi “Cửa Từ Bi”, mặt sau ghi “Đường Giác Ngộ”. Ở cổng có câu đối ghi bằng chữ quốc ngữ:


Bước lên đường giác, gót ngọc thênh thang,
Tới cổng từ bi, lòng trần nhẹ bẫng.
freSy with passion

Điểm đặc biệt

Sân trước chùa có hai bảo tháp thờ Phật, tháp chuông, tháp khánh và nhiều chậu cây bonsai. Ngôi chánh điện xây dựng bằng gỗ lim trên nền chùa cũ, mang nét kiến trúc chùa cổ miền Bắc. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm, thờ: Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Thích Ca Tam Tôn, Di Lặc, tòa Cửu Long … và các ban thờ: Bồ tát Quán Thế Âm, bát bộ Kim Cương, Thập bát A La Hán, Thập điện Minh Vương, Hộ Pháp, Tôn giả A Nan, Trưởng giả Cấp Cô Độc …

Đại đức Thích Tâm Quang, trụ trì chùa cho biết: “Chùa được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ lim với kiến trúc nội công ngoại quốc ngay trên nền cũ. Mảnh đất thu giữ được khí thiêng của trời đất, gắn bó mật thiết với hồ ao và vườn cây, vườn cảnh, tạo khối hình hoành tráng giữa thiên nhiên. Mặt chùa quay hướng Nam, đó là hướng bát nhã (trí tuệ), phát triển thiện tâm. Dù mới phục dựng và mở rộng nhưng chùa Trúc Lâm Thanh Lương vẫn giữ nguyên nét kiến trúc cổ của các ngôi chùa Phật giáo”.

Hàng năm ngoài việc tổ chức các ngày lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, Lễ Hoa Đăng,….thì Chùa Trúc Lâm Thanh Lương còn tổ chức trại hè; Tư vấn mùa thi cho thanh thiếu niên trong và ngoài tỉnh đến tham gia nhằm giáo dục đạo đức, hướng thiện cho các em. Sau 2 năm đi vào hoạt động Chùa đã đánh dấu một tầng nấc mới, một bước tiến mới trong sự nghiệp chấn hưng, phát triển Phật giáo và còn là nơi tứ chúng tu học nghiêm cẩn, tinh tấn. Thuận duyên để hình thành một tăng đoàn qua những buổi lễ quy y đông đảo cho người dân trong và ngoài tỉnh. Dưới sự hướng dẫn của Đại Đức Thích Tâm Quang vùng quê nghèo Lộc Hà ngày một ấm cúng, mọi người đến với đạo Phật nhiều hơn. Sinh hoạt Phật pháp đang dần ổn định và phát triển.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Phù Lưu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Yên Lạc

freSy with passion

Giới thiệu

Nằm lặng lẽ, yên bình giữa lớp lớp cây xanh cổ thụ, ngôi chùa cổ Yên Lạc, thuộc xã Cẩm Nhượng, Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) dường như đã trở thành tấm “bùa hộ mệnh”, bảo vệ, chở che cho người dân Nhượng Bạn bao đời nay. Đây cũng là ngôi chùa còn bảo lưu được một hệ thống tượng phật khá đầy đủ và nguyên bản nhất ở Hà Tĩnh.

Lịch sử

Chùa ngoảnh mặt về hướng Tây Nam, phía Đông Bắc là biển, phía Đông Nam cách chùa khoảng 3km có cửa sông Gia Hội. Ngọn núi Tượng sát cửa sông Gia Hội vừa như bức thành chắn gió bão, vừa tạo nên nét hùng vĩ, nên thơ của phong cảnh đẹp muôn màu. Cách chùa 1.500m về phía Tây là khu du lịch biển Thiên Cầm, có hang Hồ Quý Ly, non xanh nước biếc, bãi tắm lý tưởng…

Hiện chưa xác định được thời gian ra đời của chùa, chỉ biết chùa đã tồn tại hàng mấy trăm năm. Tương truyền, chùa được xây vào thời Hậu Lê, khoảng thế kỷ XV – XVI. Sau một số lần trùng tu tôn tạo, đến nay về cơ bản vẫn giữ nguyên trạng một số công trình kiến trúc cổ. Tam quan, hạ điện, trung và thượng điện được bố trí thẳng hàng theo một trục chính, nền cao dần về phía sau. Nhà cúng cô hồn ở phía Tây, nhà bia ở phía Đông đối xứng với nhà cô hồn. Trước chùa có bàu sen, nay không còn.

Năm 1994, chùa Yên Lạc được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Ngôi cổ tự hiện có tổng diện tích hơn 3.300m2. Tam quan, hạ điện, trung và thượng điện được bố trí thẳng hàng theo một trục chính, nền cao dần về phía sau. Ngay khi bước qua cổng chùa du khách sẽ được nhìn thấy bức tượng Di Lặc uy nghi.

Di tích chùa Yên Lạc mang đậm đặc điểm kiến trúc nghệ thuật thời Hậu Lê. Quy mô không đồ sộ nhưng các hạng mục của chùa được quy hoạch theo một tổng thể vừa có sự đăng đối, vừa uy nghi và nằm trong một khuôn viên khép kín.

Hạ điện có diện tích gần 40m2 xây tường bao quanh mái lợp ngói vảy mặt tiền gồm 4 trụ tạo thành ba cửa ra vào. Đây cũng là vị trí các tăng ni, phật tử lễ phật.

Ngay sau hạ điện là trung điện. Tại gian giữa đặt hương án sơn son thiếp vàng, trước hương án là bàn thờ gỗ. Tượng A Di Đà bằng gỗ mít đặt trên bệ xi măng cao 1,3 m đang ngồi thiền trên đài sen, hai mắt nhắm hai tay đan vào nhau.

Từ trung điện qua một sân nhỏ sẽ tới thượng điện. Thượng điện là nơi lưu giữ tượng hình Thích Ca lúc sơ sinh đang ở thế đứng tay trái chỉ lên trời, 9 con rồng kết vào nhau tạo thành vòng bảo vệ và phun nước tắm. Và tượng A Di Đà bằng đồng cao 0,95m toạ trên đài sen. Phía sau có 3 tượng Tam Thế. Đặc biệt, trong thượng điện hiện còn có bộ tranh “Thập Điện Diêm Vương”. Theo tín ngưỡng của phật giáo Á Đông, đây là các vị thần linh cai quản cõi chết và phán xét con người ở địa ngục căn cứ vào công hay tội họ đã tạo ra khi còn sống. Bộ tranh Thập Điện Diêm Vương tả những cảnh tượng khủng khiếp, nhằm cảnh báo các phật tử hãy cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: làng Nhượng Bạn, xã Cẩm Nhượng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam

Điện thoại: 0905146565

Facebook: https://www.facebook.com/chuayenlacthachhahatinh/

freSy with passion

Chùa Am - Diên Quang Tự

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Am, còn gọi là Diên Quang Tự, nằm trên núi Am, thuộc xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Chùa được xếp hạng là di tích Quốc gia theo quyết định số 188/QĐ-BT ngày 13/02/1995 của Bộ Văn hóa - Thông tin.

Lịch sử

Chùa là nơi ghi dấu hoặc liên quan tới nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử quan trọng của đời Hậu Trần, Lê Sơ, đặc biệt là quá trình khai phá, phát triển nên một vùng cư dân rộng lớn gồm mấy huyện Đức Thọ, Hương Sơn, Vũ Quang, Can Lộc ngày nay, và gắn với đó là cuộc kháng chiến chống quân Minh, giải phóng đất nước của nghĩa quân Lê Lợi trên đất Nghệ Tĩnh. Chùa do bà Hoàng hậu Bạch Ngọc khởi dựng từ nửa đầu thế kỉ XV làm nơi tu hành cùng con gái là Công chúa Huy Chân và cháu ngoại là Công chúa Trang Từ.

Theo sử cũ, Hoàng hậu Bạch Ngọc có tên thật là Trần Thị Ngọc Hào (th kỉ XIV), là Hoàng phi của vua Trần Duệ Tông, người có công khai phá một vùng rộng lớn ở Đức Thọ, Hương Sơn, Hương Khê, Can Lộc ngày nay, và giúp vua Lê Thái Tổ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Theo truyền ngôn, bà là con ông Trần Công Thiệu ở làng Tri Bản, xã Thổ Hoàng, nay là xã Hòa Hải huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; từ nhỏ nổi tiếng tài sắc, đức hạnh. Trong một lần kinh lí phía Nam, vua Trần Duệ Tông gặp và tuyển bà về cung phong làm Á phi. Bà sinh được một con gái là Trần Thị Ngọc Hiền, hiệu là Công chúa Huy Chân. Ít lâu sau vua Duệ Tông tử trận, triều đình rối ren, Hồ Quý Li mưu đồ đoạt ngôi báu, bà cùng con gái Huy Chân và gia nhân, tôi tớ rời kinh thành về Hà Tĩnh lánh nạn. Sau gần 50 ngày đêm, đoàn người mới tới phủ Đức Thọ và ẩn náu dưới chân núi Trà, núi Cốc. Họ dựng trại, ra sức khai khẩn đất hoang, chiêu dân lập làng. Dần dần, trang trại của bà trải rộng, trên từ Lâm Thao, Hoà Duyệt (nay thuộc huyện Hương Khê), Thượng Hồng, Hạ Hồng (thuộc huyện Hương Sơn), giữa đến Lạng Quang, Du Đồng và Đồng Công (thuộc huyện Đức Thọ), dưới đến Thường Nga, Lai Thạch (thuộc huyện Can Lộc), khai khẩn ruộng đất được gần bốn ngàn mẫu, gia nhân, thuộc hạ của bà lên đến hàng nghìn người, vừa làm ruộng, vừa rèn đúc vũ khí, luyện tập võ nghệ để bảo vệ trang trại và mưu đồ đại sự. Đến khi đại quân Lê Lợi về đóng tại thành Lục Niên trên núi Thiên Nhẫn, tướng Bùi Bị đã phát hiện ra trang trại của Bạch Ngọc và mời bà đến yết kiến nhà vua. Tại cuộc gặp mặt này, bà đã hiến toàn bộ tiền, lương thực tích trữ được cho nghĩa quân chống giặc Minh và gả Công chúa Huy Chân cho Lê Lợi. Nhà vua cho xây điện Phượng Hoàng tại làng Kính Kị và điện Ngũ Long ở làng Hoà Yên làm nơi cư ngụ cho hai mẹ con bà. Kháng chiến thành công, bà chối từ mọi bổng lộc, ân sủng của triều đình, xin lập 2 chùa: Chùa Tiên Lữ ở Mỹ Xuyên (nay thuộc xã Tân Dân, huyện Đức Thọ) và chùa Am (Diên Quang Tự, thuộc xã Hòa Lạc, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh ngày nay) làm nơi tu hành, ngày ngày tụng kinh niệm Phật. Không có tài liệu nào về năm mất của Hoàng hậu Bạch Ngọc, chỉ biết bà mất vào ngày 22.6 Âm lịch khoảng niên hiệu Hồng Đức (1460 - 1497) đời Lê Thánh Tông. Sau khi bà Bạch Ngọc, con gái và cháu ngoại qua đời, chùa Am thành nơi thờ ba bà cháu.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Ngoài giá trị lịch sử, chùa Am còn là một quần thể kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Công trình xưa nằm trên lưng chừng núi giữa rừng già u tịch, cây cối quấn quýt bao quanh; phía sau là dãy Trà Sơn, phía trước, cách chừng một cây số, là sông Ngàn Sâu chảy về sông La.

Trước chùa có sân rộng, lối lên xuống đi hai bên, trước sân có hồ sen nhỏ. Sân chùa có bãi đá mọc như người quỳ lạy, gọi là "Bái Phật - lạy Tăng". Đặc biệt, hai bên đường lên có hai cây đại cổ thụ vài trăm tuổi chầu hướng về chùa. Vách đá dựng đứng phía sau chùa được gọi là Đá Thần Công.

Nội thất chùa dù đã trải qua nhiều lần trùng tu, nhiều chi tiết không còn được giữ nguyên, nhưng cho đến khoảng cuối thế kỉ XX hình thể và phong cách kiến trúc vẫn giữ đậm nét thời Lê. Công trình có bảy gian chính, hai gian hồi, tám vì kèo, 12 mái kiểu chồng diêm, với 60 cột gỗ, hệ thống cột hiên phía trước và sau, được bố trí chiều dọc theo hình chữ “công” (工). Toàn bộ cột, kèo, xà ngang, xà dọc, hoành tải, cầu phong… đều làm bằng gỗ mít, gắn kết liên hoàn tạo thành bộ khung cực kì vững chắc. Cấu trúc phần mái cũng khá phức tạp. Hai tầng tám mái chính chồng nhau tại đỉnh dãy cột quân tạo thành hệ thống mái vừa dài vừa rộng; bốn mái phụ cắt các mái chính làm nên cấu trúc sườn mái khép kín để chống mưa bão. Các mái dọc, mái ngang được thiết kế hợp lí để từ ngoài nhìn vào ngôi chùa hướng nào cũng như là mặt chính. Đồng thời, phần giữa mái ngói của chính điện hơi chùng xuống, hai đầu uốn cong dần lên tạo thành hình dáng con thuyền Bát Nhã đang lướt sóng. Với tổng thể kết cấu như vậy, ngôi chùa tạo nên nơi khách viếng thăm cảm giác vừa đồ sộ, rộng thoáng, vững chắc vừa mềm mại, uyển chuyển.

Trong bảy gian chính của chùa, bốn gian ngoài là nơi làm lễ cầu kinh, niệm phật và thực hiện các nghi thức tín ngưỡng khác; ba gian phía trong là các bàn thờ Phật. Chính điện thờ tôn tượng Tam Thế Phật, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật Quan Âm và các vị Bồ tát khác; bên trái đặt tượng chư vị Phật Tăng và bên phải đặt tượng Hoàng hậu Bạch Ngọc bằng đồng trong khảm gỗ sơn son thếp vàng.

Chùa Am có chuông đồng cao 1,3 m, rộng 0,9 m có bốn núm Xuân - Hạ - Thu - Đông. Khi đánh chuông ngân rất xa. Cũng tiếc thay, bảo vật này cũng đã bị đánh cắp và phá hỏng. Năm 2012 các ngôi điện thờ mới được phục dựng trở lại. Bên trái từ dưới nhìn lên chùa là nhà thờ Hoàng hậu; ở gian chính giữa là ba tượng của ba bà cháu Hoàng hậu ngồi trong khám thờ trang nghiêm, gian bên trái thờ Ngọc hoàng, gian bên phải thờ thần linh và các dòng họ, hai đầu hồi còn lưu giữ lại được chiếc thuyền rồng của Hoàng hậu, kiệu rước và tượng cổ của Bà (Đây là bảo vật rất quý cần được bảo vệ nghiêm ngặt). Bên phải chùa nhìn sang là nhà thờ Tổ, với các pho tượng của các vị Tổ sư có công lao lớn với Phật giáo Việt Nam và các vị sư Tổ trụ trì các đời từ trong chùa chính chuyển sang.

Ngoài ra, không thể không kể đến ngôi miếu giải oan nằm phía trước bên trái sân chùa nhìn ra 10 m. Miếu xây hình tháp hai tầng, cao 4,1m, dài 2,1m, rộng 1m. Đỉnh tháp đắp hình hồ lô, hai cửa phía trước có bàn thờ và hương án với câu đối:


Dương đồng biến tác đề hồ thực bằng Pháp lực,
Nghiệp hỏa sỹ vi thanh thái toàn lại Phật uy

Nơi này hàng năm cứ đến Rằm tháng Bảy và các ngày lễ Tết, nhà chùa và người dân địa phương làm lễ cúng tế những vong linh gửi vào chùa. Đồng thời, đây cũng là nơi những người có oan ức đều cầu xin giải oan.

Phía phải chùa nhìn ra từng có nhà Tăng, trong chiến tranh bị mục nát hoàn toàn, gần đây được xây dựng lại để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của chư Tăng và Phật tử phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước.

Phía trước chùa Am có tháp mộ Sư Tổ Thanh Liễn. Phía đối diện miếu Giải oan là tháp của 7 vị Tổ ẩn danh đã lần lượt trụ trì chùa Am trước đó. Phía hai bên chùa có tháp mộ của 2 vị Tổ ẩn danh, tương truyền đã tu hành đắc đạo, đến tuổi già mãn duyên đã tự thiền định nhập diệt. Chùa Am vốn được xây dựng từ thế kỷ XV. Trải qua nhiều thế kỷ tồn tại, nhiều nhà sư đã tu hành và viên tịch ở chùa. Đến nay tiêu biểu nhất là 4 ngôi Bảo tháp (An vị hài cốt của 10 vị Tổ sư) được xây cất gần 100 năm trước, tôn nghiêm, đẹp đẽ, thực sự là các công trình nghệ thuật tiêu biểu của tỉnh Hà Tĩnh:

  • Tháp Diên Lạc: Nằm phía trái sân chùa, cách bờ sân 5 m, tháp khối vuông, cạnh 1,6 m, cao 3,10m, quy mô 2 tầng, đỉnh tháp hình búp sen. Mặt tháp khắc 3 chữ "Diên Lạp Tháp".
  • Tháp Từ Nghiêm: Nằm đối diện Tháp Diên Lạc, với quy mô giống nhau. Hai mặt tháp khắc 3 chữ: "Từ Nghiêm Tháp".
  • Tháp Yên Tập: Nằm phía trước bên phải, cách sân chùa 40m, tháp cao 4,1m, mặt tháp rộng 2,55m được xây dựng tỉ mỉ hơn so với hai tháp trên, quy mô tháp hai tầng, ba mặt khắc chữ: "Yên Tập Tháp".
  • Tháp Sinh Tịnh: Tháp mộ Tổ sư Thanh Liễn (Nguyễn Tất Tố) là quy mô lớn hơn cả. Tháp được xây phía trước, bên trái cách chùa 100m, cạnh Tỉnh lộ 28. Tháp làm hình chữ nhật hai tầng có 8 mái, cao 4m, dài 4,9m, rộng 2,35m có tường bao xung quanh. Tầng trên khắc ba chữ Hán "Sinh Tịnh Tháp" niên hiệu Bính Tý đời Vua Bảo Đại (1936).

Gần đây, dưới sự trụ trì của Đại đức Thích Chiếu Tuệ, các công trình tâm linh được trùng tu xây dựng, nhiều sinh hoạt Phật sự được phục hồi và phát triển, góp phần cùng sự phát triển của Phật giáo Hà Tĩnh. Trong tương lai chùa Am - Diên Quang Tự sẽ là điểm đến hấp dẫn về du lịch văn hóa tâm linh, thu hút nhiều du khách thập phương và phật tử từ mọi miền của tổ quốc vãn cảnh, viếng chùa.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Hòa Lạc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Thiên Tượng

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Thiên Tượng, một trong những danh thắng nổi tiếng của Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh, được mệnh danh là "Hoan châu đệ nhị cảnh quan". Chùa được xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia năm 2005, nằm trên lưng chừng đỉnh núi Hồng.

Lịch sử

Theo các sách sử học Đại Nam nhất thống chí và Hoàng Việt nhất thống địa chí, chùa Thiên Tượng được xây dựng từ thời nhà Trần cách đây hơn 600 năm tuổi. Đến năm 1885, chùa bị cháy và thiệt hại nghiêm trọng.

Mãi đến năm 1901, quan tổng đốc Nghệ An Đào Tấn cho trùng tu lại chùa. Lúc này, chùa Thiên Tượng tọa lạc ở độ cao 350m trên ngọn núi Hồng Lĩnh Hà Tĩnh, nằm sát trên con đường thiên lý. Nơi đây từng là điểm dừng chân của rất nhiều bậc chân tu, chân nhân.

Xung quanh sự ra đời và tồn tại của chùa cổ Thiên Tượng có rất nhiều bài thơ, bài ca dao hay và nổi tiếng. Tổng đốc An Tĩnh Đào Tấn sau khi thấy cảnh hoang tàn của chùa bị cháy đã cảm khái viết một số vận thơ năm 1901 như sau:


Phật đổ chùa nghiêng tòa tam bảo
Hương tàn khói lạnh vị chúng sinh

Hay:


Cây Hồng ráng biếc gửi mô
Ai người gây dựng lại chùa này đây

Chùa Thiên Tượng ngày nay còn là nơi ghi dấu bút tích của không ít các danh nhân sĩ tử như: Bá hộ Nguyễn Văn Cơ, Uy viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, Trần Sỹ Dực… Hay trên con đường dẫn lên chùa còn có dấu tích câu ca:


Ăn trầu nhớ miếng cau khô
Trèo lên Thiên Tượng nhớ cô bán hàng

Hay:


Sớm chồng mà lại muộn con
Trèo lên Thiên Tượng đã mòn gót chân
freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Thiên Tượng không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn mang đậm giá trị văn hóa, kiến trúc, đem đến những trải nghiệm hết sức mới mẻ cho du khách. Điều dễ nhận thấy nhất trong kiến trúc của chùa là phần thượng tịnh có kết cấu mái vòm đặc trưng của các ngôi chùa cổ ở Việt Nam.

Khuôn viên chùa rộng tới 150.000m2, hiện đang là nơi lưu giữ nhiều tháp cổ như: Thạch Sơn, Lưu Đức… Các tháp cổ được xây dựng nhiều tầng, hoa văn phù điêu đậm nét trang nghiêm và tôn kính với các bậc cao tăng khi đã được hoằng hóa.

Đứng trên chùa cổ Thiên Tượng nhìn xuống sẽ thấy thị xã Hồng Lĩnh, sông La và sông Lam đẹp như một bức tranh hồn thiêng sông núi. Từ chùa đi về hướng Đông Nam khoảng 2km sẽ đến hồ Thiên Tượng. Đây là một hồ nước có cảnh quan sơn thủy hữu tình, thanh tịnh, khác xa chốn thành đô náo nhiệt. Du khách có thể thoải mái hít hà không khí trong lành, chiêm ngưỡng vẻ bình yên của mặt hồ hay checkin những bức ảnh sống ảo rất lý tưởng tại đây.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Kinh Dương Vương, phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh, Việt Nam

Điện thoại: 0912657274

freSy with passion

Chùa Hương Tích

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Hương Tích - tên chữ là Hương Tích Cổ Tự, tên dân gian là chùa Thơm - nằm trên dãy núi Hồng Lĩnh là một trong 21 thắng cảnh nổi tiếng bậc nhất của nước Nam xưa. Không chỉ thu hút khách du lịch bằng vẻ đẹp thiên nhiên say đắm, chùa còn là chốn linh thiêng, nơi tìm lại sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn.

Nằm ở độ cao 650m so với mặt nước biển, chùa Hương Tích Hà Tĩnh nằm ở lưng chừng đỉnh Hương Tích – một trong những ngọn núi đẹp, hùng vĩ nhất của dãy Hồng Lĩnh thuộc xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Chùa có tên gọi đầy đủ là Hương Tích Cổ Tự. Dân gian còn gọi đây là chùa Thơm. Chùa Hương Tích theo hệ phái Phật giáo Bắc Tông, thờ Quan Âm Bồ Tát.

Lịch sử

Chùa Hương Tích là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời nhất tại Việt Nam có niên đại hàng nghìn năm. Tương truyền, chùa được xây dựng từ thế kỷ XIII vào thời nhà Trần. La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp từng nhắc đến lịch sử hình thành của chùa qua 2 câu thơ “Hương Tích Trần Triều – Hồng Sơn đệ nhất phong” (Hương Tích ngôi chùa đời Trần – Dựng trên ngọn núi đẹp nhất Ngàn Hồng).

Chùa Hương Tích gắn liền với sự tích công chúa Diệu Thiện – con gái vua Trang Vương nước Sở tu hành hóa Phật. Truyền thuyết kể lại, khi biết vua cha có ý ép gả cho viên quan võ độc ác, Diệu Thiện đã tìm đến quy y cửa phật. Nàng được Phật che chở, cứu thoát trong trận hỏa hoạn, dừng chân ở động Hương Tích lập am tu hành tại đây.

Sau này, khi nghe cha bị bệnh, nàng đã hiến dâng cả tròng mắt và bàn tay để cứu cha. Đức Phật cảm động đã hóa phép cho mắt Diệu Thiện sáng lại, tay mọc lại. Nàng tu hành đắc đạo, hóa thành Phật Quan Âm ngàn mắt ngàn tay.

Cũng có truyền thuyết cho rằng công chúa Diệu Thiện được Thần Hổ linh thiêng che chở đến núi Hồng Lĩnh lập am, tu hành và hóa Phật.

Trận hỏa hoạn lớn xảy ra vào năm Ất Dậu 1885 thiêu rụi phần lớn ngôi chùa. Đến năm 1901, Tổng đốc An – Tĩnh tiến hành quyên góp, trùng tu và xây dựng lại. Chùa được vua Bảo Đại chọn là biểu tượng chạm khắc vào Anh Đỉnh đặt ở Đại Nội Huế năm 1936. Chùa được Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam công nhận là di tích văn hóa - thắng cảnh cấp quốc gia từ năm 1990.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Quần thể di tích văn hóa tôn giáo chùa Hương Tích Hà Tĩnh bao gồm nhiều công trình, hạng mục. Ngoài thờ Phật, nơi đây còn lập ra nhiều đền thờ Thần mang đậm tín ngưỡng văn hóa của người Việt. Cung Tam Bảo trong chùa Hương Tích hiện đặt 54 pho tượng Phật cổ được làm bằng gỗ quý hiếm có lịch sử hàng nghìn năm. Các bậc đá, nền đá của chùa có dấu tích rêu phong hầu như còn nguyên sơ theo kết cấu cũ.

hùa Hương Tích ở Hà Tĩnh là cả một quần thể di tích văn hóa tôn giáo Việt Nam cổ truyền, với nhiều ngôi chùa thờ Phật, một vài ngôi đền thờ Thần, trong đó cả cả những ngôi đền mang tính ngưỡng nông nghiệp và tín ngưỡng thờ mẫu. Quần thể chùa Hương ở độ cao 650m so với mặt nước biển, được chia làm ba phần chính: Thượng điện, đền Thiên Vương và am Thánh Mẫu.

Theo truyền thuyết, am Thánh Mẫu là nơi Công chúa Diệu Thiện tu hành và hóa Phật Quan Âm. Xung quanh chùa còn nhiều cảnh quan như: động Tiên Nữ, am Phun Mây, miếu Cô, suối Tiên Tắm, khe quỷ khóc. Tại chùa Hương Tích có tượng thần hổ đặt ở trên đường đi lên chính điện để người dân thờ cúng, tượng hổ thần được đặt ở phía bên phải, theo hướng đi lên khu vực Chính điện chùa Hương Tích, tượng hổ đặt ở hướng đi lên khu vực chính điện chùa Hương Tích, Hổ thần được làm bằng bê tông, sơn màu vàng, ở tư thế đang nằm nghỉ ngơi.

Trên đỉnh núi có bức thành đá, bên thành có 99 cái nền, cái nào cũng được ghép bằng đá mài đẽo trơn phẳng làm nền gọi là Trang Vương. Người ta lấy đá xây thành am. Trong am đặt tượng Quan âm và một số tượng bằng đá. Bên phải am có chùa Phật, bên trái am có đền thờ đại vương Núi Hồng. Trong đền có tâm bia vua ban chữ thếp vàng. Một con suối xanh theo bậc đá đi lên, mỗi bước là một phong cảnh khác nhau. Lên cao trông khắp bốn phương, đúng là nơi danh thắng đệ nhất ở miền Hoan Châu
Lưu Công Đạo - trích "Thiên Lộc Huyện Phong Thủy Cổ Chí" - (năm 1811)

Để lên được chùa Hương, khách tập phương có chọn lựa một là suốt hơn 5 km đường rừng qua rừng thông, rừng trúc mai, từ cổng chùa để lên đến chính điện ở độ cao 650m so với mực nước biển. Hai là đi thuyền trên đập Nhà Đường (khoảng 2 km) ngắm nhìn nước từ khe quỷ khóc chảy ra, ngắm cảnh suối nước thơ mộng đẹp như trong tranh vẽ để đến cổng chùa, sau đó đi bộ 1 km theo khe quỷ khóc lên đến đến suối Hương Tuyền, rồi tiến hành đi cáp treo lên chùa. Đường lên chùa rợp bóng thông xanh mát, cả hành trình du khách sẽ được nghe tiếng suối hòa quyện với tiếng thông reo giữa mênh mông trời đất. Thời gian lên đến chùa đủ để cho con người ta tỉnh tâm về bản thân mình. Càng lên cao du khách càng bị cuốn hút bởi cảnh đẹp thiên nhiên sơn thủy hữu tình, từ trên cao nhìn những đám mây lững lờ trôi phía dưới lại tưởng như đang lạc vào chốn Bồng Lai tiên cảnh.

Ở độ cao 650m so với mực nước biển, chùa Hương Tích Hà Tĩnh hớp hồn du khách với cảnh núi non hùng vĩ. Cung đường dẫn đến chùa dốc thoải, được thiết kế thành các bậc thang. Từ trên cao nhìn xuống, bạn có thể nhìn thấy khung cảnh hoang sơ, huyền ảo, xanh ngắt một vùng. Đứng ở không gian tĩnh lặng giữa chốn linh thiêng mờ ảo trong làn hương khói, tâm hồn của bạn sẽ trở nên thư thái, bình yên sau chuỗi ngày dài đối mặt với những áp lực cuộc sống.

Sau Tết Nguyên Đán, chùa Hương Tích sẽ bắt đầu khai hội. Lễ hội kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch hằng năm. Ngày hội chính được chùa tổ chức vào 18/2 âm lịch. Đây là ngày mà công chúa Diệu Thiện hóa Phật.

Lễ hội chùa Hương Tích Hà Tĩnh là nét đẹp văn hóa tín ngưỡng truyền thống của người dân bản địa nói riêng và của Phật tử gần xa trên cả nước nói chung. Đây là dịp để du khách trải nghiệm các hoạt động văn hóa dân gian của người Việt xưa.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: đỉnh Hương Tích - dãy Hồng Lĩnh, xã Thiên Lộc. huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Tượng Sơn

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Tượng Sơn ở thôn Yên Hạ (làng Quát), xã Tình Diệm, tổng Hữu Bằng, nay là ở xã Sơn Giang (Hương Sơn - Hà Tĩnh) được biết đến là ngôi chùa thiêng gắn liền với tên tuổi của Đại danh y Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Hằng năm, chùa đón hàng nghìn du khách trong và ngoài tỉnh đến thắp hương, tham quan.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật, năm 1994, Bộ Văn hoá - Thông tin đã công nhận chùa Tượng Sơn là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Năm 2010, Viện bỏng quốc gia Lê Hữu Trác đầu tư tôn tạo chùa Tượng Sơn, đến năm 2013 hoàn thành.

Chùa Tượng Sơn nằm trong Quần thể khu di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Đây là một trong những ngôi chùa cổ đẹp và linh thiêng, với kiến trúc nghệ thuật được bố trí đăng đối hài hòa và độc đáo, trở thành điểm thu hút khách thập phương đến tham quan du lịch trong những ngày đầu xuân năm mới trên hành trình về với mảnh đất Hương Sơn.

Lịch sử

Chùa Tượng Sơn có diện tích 1,5 héc ta, nằm cạnh con sông Ngàn Phố và khá tách biệt với khu dân cư, tạo nên vẻ u tịch và trang nghiêm. Phía sau chùa có dãy núi Voi nên chùa được đặt tên là “Tượng Sơn tự” (chùa Núi Voi). Phía tây, ngay bên chùa là khe suối bắt nguồn từ dãy Đại Huệ, băng qua gềnh đá, ngày đêm nước chẩy ầm ầm nên chùa còn có tên Nôm là chùa Ầm Ầm (có tài liệu ghi là chùa Hầm Hầm).

Chùa Tượng Sơn được xây dựng vào đời Hậu Lê, đời Lê Dụ Tông (đầu thế kỷ XVIII), do bà ngoại của Đại danh y Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là bà Đặng Phùng Hầu, vợ của Tả hiệu điểm Tham đốc Quận công Bùi Tướng Công lập ra. “Tục truyền rằng nguyên xưa bà Tham đốc (bà Đặng Phùng Hầu) làm cung phi, được vua yêu quý, song không có con nên bà buồn, mới xin vua lập chùa ở núi Tượng Sơn để quy y cửa Phật” [2; 38]. Điều này là hơi khó tin. “Nhưng cũng có thể sau khi xuất cung, bà mới làm vợ lẽ ông Tham đốc họ Bùi, và về Tình Diệm lập chùa (?). Bà Bùi Thị Thưởng, con gái ông Tham đốc, khi cao tuổi cũng về Tình Diệm sinh sống và tiếp quản ngôi chùa, rồi truyền lại cho con cháu nhà họ Lê”. Bà Bùi Thị Thưởng, hiệu Diệu Tuệ (có nơi chép Diệu Huệ) là con gái thứ của ông Tả hiệu điểm Đăng phùng hầu Bùi Diệm Đăng, vợ thứ nhất của Tiến sĩ Lê Hữu Mưu (1675 - ?), được tấn phong là Thận Nhân. Ông bà sinh Hữu Thức (đậu Tam trường), Hữu Ky (đậu Tam trường), Hữu Toản (Nho sinh trúng thức, làm đến Công phiên Thiêm tri), Hữu Chẩn huý Trác… Trong đó, Lê Hữu Trác là người con thứ 7 của bà Bùi Thị Thưởng.

Chùa được xây dựng dưới sự trực tiếp chỉ đạo của hai anh em Lê Hữu Trác và Lê Hữu Tán, với mục đích dưỡng tâm thờ Phật và thờ phụng tổ hai họ Bùi và Lê Hữu. Trong những năm 1760 - 1786, Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác đã dành phần lớn thời gian lưu lại chùa, mở phòng mạch chữa bệnh cho nhân dân và hoàn thành các tác phẩm như Hải Thượng Y tông tâm lĩnh (gồm 28 tập, 66 quyển), Y trung quan kiện, Y hải cầu nguyên, Thượng kinh ký sự, Vận khí bí điển và nhiều tác phẩm khác.

Chùa trước đây được làm bằng tranh, đến năm Tự Đức thứ 33 (1880) mới tu lý lại, làm thành chùa ngói. Kiến trúc ban đầu của chùa Tượng Sơn theo hình chữ Nhất. Quần thể chùa Tượng Sơn gồm có ba ngôi chùa: Chùa Thượng, chùa Hạ và nhà Tổ. Chùa Thượng chính điện thờ Phật Thích Ca, bên tả thờ ông bà Tham đốc Quận công (ông bà ngoại của danh y Lê Hữu Trác) và bà Bùi Thị Thưởng (thân mẫu của danh y); bên hữu thờ tổ tiên họ Lê Hữu. Bên sát cạnh chùa Thượng là Nhà Tổ, thờ tượng Tổ Đạt Ma, lịch đại Tổ sư, trong chùa có nhiều pho tượng Phật được tạo hình dáng nghệ thuật đẹp với nhiều dáng vẻ độc đáo, nhất là pho tượng lớn Bồ Tát chuẩn đề 18 tay. Trước sân nhà tổ là cổng tò vò xây kiểu chồng diêm, tiếp theo bên phải nữa là ba gian nhà khách rộng rãi, phía sau là tăng xá phương trượng. Góc trái vườn chùa có bảy am mộ của các nhà sư trụ trì viên tịch tại đây. Chùa Hạ là một lầu chuông tám mái được chạm trổ tinh xảo theo kiểu hoa văn kiểu tứ linh, tầng trên treo chuông, tầng dưới làm nơi lễ bái.

Chùa được trùng tu nhiều lần, nhưng vẫn giữ được những nét cổ kính, nguyên gốc. Trong vườn nhà chùa có những cây vải, cây nhãn cổ thụ (do cụ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác lấy giống ở Hưng Yên về trồng), tồn tại dưới 300 năm. Trải qua thời gian hàng trăm năm, chùa Tượng Sơn trở thành ngôi chùa cổ, rất thiêng, là nơi còn lưu giữ nhiều bức tượng cổ. “Từ ngày lập chùa (cuối thế kỷ XVIII) đến đầu thế kỷ XX, năm thứ 3 đời Bảo Đại (1928), có 7 nhà sư trụ trì, có công lao tôn tạo chùa, đều người họ Lê. Đó là các Thiền sư Diệu Thông, Phổ Quang, Phổ Minh, Tâm Đắc, Quảng Vận, Nhuận Du và Lê Hữu Cát”. Hai vị có nhiều công hơn cả là Thích Phổ Quang và Thích Quảng Vận.

Thích Phổ Quảng, thế danh Lê Hữu Đan, là cháu gọi danh y Lê Hữu Trác bằng ông chú. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) vào tháng Bảy, triều đình mở khoa sát hạch về tam giáo, có 174 nhà sư trong cả nước tham dự; 44 vị được lấy đỗ. Sư Phổ Quang đứng thứ 7, được ban yến tại chùa Linh Mụ. Trở về, ông đã cho làm lại chùa Thượng, dựng gác chuông tám mái, đúc quả đại hồng chung, trên mặt có khắc bài ký và dòng chữ “Tượng Sơn tự chung”.

Thích Quảng Vận, thế danh Lê Khả Cơ, là người đứng ra trùng tu chùa Thượng, xây nhà Tổ, nhà khách… vào năm Tự Đức 23 (1870). Ông lại đặt bể cạn, trồng cây cảnh, đặc biệt đã cho trồng một vườn cây ăn quả rộng tới 1 mẫu, có đủ loại cam, bưởi, vải, nhãn, mít, xoài, hồng, na, chuối, trầu cau…

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Tượng Sơn nằm trong quần thể di tích Hải Thượng Lãn Ông, đánh dấu nơi mà vị danh y này sinh sống và dành nhiều thời gian mở phòng mạch, khám bệnh, bốc thuốc cứu chữa cho người dân

Văn bia Chùa Tượng Sơn ghi chép, ban đầu của chùa có kiến trúc theo hình chữ "Nhất" nay đã qua trùng tu nhiều lần. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà sư Lê Hữu Ân pháp danh Thích Phổ Quang đã làm lại chùa Thượng, sửa chữa chùa Hạ, dựng gác chuông tám mái, đúc đại hồng chung có khắc chữ Tượng Sơn tự chung.

Năm Tự Đức thứ 23 (1880), Thiền sư Thích Quảng Vận đã sửa chữa bổ sung thượng điện, kiến thiết nhà Tổ, làm nhà khách, lát sân, xây bể, lập vườn cây ăn quả. Đầu thế kỷ 20, Thiền sư Thích Nhuận Du quy tập, xây cất vườn tháp mộ.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật “độc nhất vô nhị”, năm 1994, Bộ Văn hoá - Thông tin đã công nhận chùa Tượng Sơn là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

Ước nguyện của những người thầy thuốc Việt Nam muốn xây dựng khu di tích quốc gia Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác thành một địa chỉ giáo dục truyền thống văn hóa, y đức cho mọi thế hệ. Ngày 31/10/2003, Bộ trưởng Bộ Y Tế đã ký quyết định phê duyệt dự án trùng tu, tôn tạo quần thể Di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và giao Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác làm chủ đầu tư đến năm 2013 hoàn thành.

Từ đó đến nay, hàng năm tại chùa Tượng Sơn ngoài những ngày lễ Phật Đản, Vu Lan còn có lễ hội như Lễ Thượng nguyên và Lễ cầu yên…

Quần thể gồm ba khu chính: Khu di tích số 1 khởi công xây dựng vào tháng 11/2004 tại xã Sơn Trung với 45 hạng mục, diện tích xây dựng 45.000 m2. Trong đó có mộ đá Hải Thượng, tượng đài Lê Hữu Trác cao 16,91m, nặng 350 tấn.

Khu di tích số 2 khởi công xây dựng vào ngày 20/6/2008 tại xã Sơn Quang với 18 hạng mục, diện tích xây dựng 12.970 m2. Trong đó có nhà thờ Hải Thượng Lãn Ông, nhà bia, nhà tiền tế, vườn đào … Cụm di tích hoàn thành vào ngày 01/11/2009. Tấm bia "Đại Danh Y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791)" ghi lại cuộc đời, thân thế và cống hiến của ông.

Khu di tích số 3 do Bộ trưởng Bộ Y Tế ký quyết định phê duyệt dự án tu bổ, tôn tạo chùa Tượng Sơn ngày 30/10/2009, với 22 hạng mục, diện tích xây dựng 13.575 m2. Trong đó có tòa thượng điện, nhà Tổ, tả vu, hữu vu, tam quan, tượng Phật Bà Quan Âm, bia dẫn tích … Công trình được bàn giao vào ngày 27/02/2013.

Hiện nay, chùa Tượng Sơn có chùa Thượng chính điện thờ Phật Thích Ca, bên tả thờ ông bà Tham đốc quân công (ông bà ngoại của danh y Lê Hữu Trác) và bà Bùi Thị Thưởng (thân mẫu của danh y); bên hữu thờ tổ tiên họ Lê Hữu.

Nhà Tổ thờ tượng Tổ Đạt Ma, lịch đại Tổ sư, có pho tượng lớn Bồ Tát Chuẩn đề 18 tay. Về phía góc trái vườn chùa có 7 am mộ của các nhà sư trụ trì viên tịch tại đây. Chùa Hạ là một lầu chuông 8 mái được chạm trổ tinh xảo theo hoa văn kiểu tứ linh, tầng trên để gác chuông, tầng dưới làm nơi lễ bái.

Để đáp ứng nhu cầu tâm linh và tín ngưỡng của người dân địa phương, GS.TS. Thiếu tướng Lê Năm, Giám đốc Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác, chủ đầu tư công trình tôn tạo khu di tích Hải Thượng Lãn Ông và chùa Tượng Sơn đã cung thỉnh Thượng tọa Thích Nhật Từ về trụ trì chùa.

Điện Phật chùa được bài trí trang nghiêm, thờ tượng: đức Phật Thích Ca, đức Phật A Di Đà, đức Phật Dược Sư, Bồ tát Chuẩn Đề, Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng và bộ tượng Thất Phật Dược Sư. Trước Phật điện, có ban thờ đức Phật A Di Đà, Bồ tát Địa Tạng, Hộ Pháp và Tiêu Diện.

Chùa Tượng Sơn không chỉ có bề dày lịch sử, mà còn nổi tiếng với phong cảnh hữu tình, thu hút khách thập phương đến tham quan du lịch trong những ngày đầu xuân năm mới. Ngoài ra, chùa mang đậm nét kiến trúc và văn hóa của Phật giáo nên được nhiều phật tử hàng ngày đến dâng hương, cầu mong những điều may mắn.

Đặc biệt là những ngày đầu năm mới. Chùa là điểm tham quan văn hóa, giá trị lịch sử để thế hệ trẻ đến biết thêm về cội nguồn. Người dân địa phương xem chùa như "báu vật" cùng nhau bảo vệ, giữ gìn và phát huy các giá trị độc đáo. Ngày 14 tháng Giêng mỗi năm hàng ngàn người dân cùng khách thập phương, chính quyền địa phương đã dâng hương tưởng niệm năm ngày mất của Đại danh y Hải thượng Lãn Ông, tại nhà thờ của ngài đặt tại thôn Bảo Thượng, xã Quang Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Sơn Giang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam

Điện thoại: 0908017448

freSy with passion

Chùa Cảm Sơn

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Cảm Sơn - Cảm Sơn Tự, thường gọi chùa Nài, dựng trên mái Tây Nam núi Cảm Sơn (núi Nài) thuộc địa phận thôn Nài Xuyên, xã Đại Nài, huyện Thạch Hà, nay là phường Đại Nài, Thành phố Hà Tĩnh.

Từ giữa thế kỷ 19, quần thể Núi Nài – Chùa Cảm Sơn đã nổi tiếng gần xa và được xếp là một trong tám cảnh đẹp quanh tỉnh thành Hà Tĩnh. Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc địa danh này gắn liền với những chiến công vang dội của quân dân Hà Tĩnh từ trận đầu thắng Mỹ ngày 26 - 3 - 1965. Trải qua bao biến đổi thăng trầm, sông Phủ, núi Nài, chùa Cảm Sơn mãi luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống, sinh hoạt của cư dân bản địa.

Lịch sử

Sách Đồng Khánh địa dư chí chép: Chùa “do Hoan quận công đời Lê chủ trì xây dựng vào niên hiệu Thịnh Đức (1653 – 1657) đời Lê Thần Tông”. (Theo một đạo sắc phong thần năm Duy Tân thứ 3 (1909) thì Đại đô đốc Hoan quận công họ Đặng (không rõ tên) được thờ ở đền làng Hà Xá, xã Chỉ Châu, nay là xóm Đông Hà, xã Thạch Trị, huyện Thạch Hà).

Đời Nguyễn, chùa Cảm Sơn được coi là một trong tám cảnh đẹp quanh tỉnh thành Hà Tĩnh (Tĩnh thành bát cảnh).

Khoảng năm 1849 – 1851, khi mới trí sĩ, Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) về rú Nài để di dưỡng tinh thần. Tương truyền, ông dựng một nếp nhà tranh ở bên chùa. Trước nhà, có câu đối:


Hỏa kỳ thư, lư kỳ cư, Đường Hàn Dũ nhất nhân nhi dĩ;
Lan kỳ đài, thạch kỳ thất, Hán Vĩnh Bình thiên cổ dĩ lai.

GS. Trương Chính dịch:


Phá chùa Phật, đốt sách kinh, Đường Hàn Dũ một người thôi thứ;
Tô đài hoa, xây gác đá, Hán Vĩnh bình muôn thuở lại nay!

Sau cách mạng, qua chín năm kháng chiến chống Pháp, mặc dầu nhiều lần máy bay địch bắn phá vùng núi Nài, chùa Cảm Sơn vẫn còn. Đến tháng 3/1965, chùa bị bom đạn Mỹ phá hủy hoàn toàn.

Hơn vài mươi năm gần đây, chùa được khôi phục lại và hiện đã được trùng tu, trở thành một trung tâm Phật giáo ở Hà Tĩnh.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần trên nền móng ngôi chùa Cảm Sơn xưa. Năm 1997, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm từ Hà Nội về Hà Tĩnh khôi phục Phật giáo và chùa tháp tại đây. Năm 2005, Hòa thượng thành lập Ban Đại diện Phật giáo Hà Tĩnh. Đến năm 2007, Đại hội Phật giáo Hà Tĩnh lần thứ nhất được tổ chức. Ban Trị sự GHPGVN tỉnh chọn chùa Cảm Sơn để đặt Văn phòng Ban Trị sự nên đã có kế hoạch tôn tạo chùa: năm 2012, dựng nhà Tổ; năm 2013, dựng ngôi chánh điện mới uy nghiêm theo kiến trúc truyền thống chùa Việt.

Điện Phật được bài trí tôn nghiêm, thờ tượng Tam Thế Phật, Di Đà Tam Tôn, Thất Phật Dược Sư, đức Phật Thích Ca, tượng Đản Sanh và tượng Bồ tát Quán Thế Âm.

Nằm gần kề tuyến đường thiên lý Bắc- Nam, giữa vùng đất Thành Sen có bề dày về truyền thống văn hoá, lịch sử, chùa Cảm Sơn từng có rất nhiều tao nhân mặc khách, sĩ tử đến lai kinh ứng thí hoặc các vị quan lại về đây vãn cảnh dâng hương. Tương truyền rằng những danh sĩ nổi tiếng như: Bùi Huy Bích, Cao Bá Quát, giải nguyên Nguyễn Hàm Ninh, chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu... cũng từng đặt chân đến chiêm ngưỡng quần thể núi Nài, chùa Cảm Sơn và đã để lại nhiều vần thơ tuyệt bút.

Đặc biệt người để lại dấu ấn sâu đậm nhất trên vùng đất Núi Nài - Sông Phủ phải kể đến Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ, một nhà quân sự tài ba, nhà văn hóa lớn của giải đất Hồng Lam. Khi về trí sĩ ông chọn chùa Cảm Sơn làm nơi di dưỡng tinh thần. Hiện nay trong khuôn viên trường Trung học Cơ sở Đại Nài vẫn còn giếng chùa và tấm bia đá tương truyền do Tướng công Nguyễn Công Trứ tạo dựng. Dù chỉ là truyền ngôn, nhưng giếng chùa và tấm bia đá vẫn luôn được các thế hệ giáo viên và học sinh trường Trung học Cơ sở Đại Nài tự hào, gìn giữ.

Quần thể Núi Nài - Chùa Cảm Sơn gắn với nền văn hoá phật giáo trên dải đất núi Hồng, sông La có lúc thăng, lúc trầm. Song vượt lên tất cả vùng đất này vẫn là nơi chứa đựng nhiều dấu tích, nhiều tầng vỉa văn hóa của các bậc tiền nhân để lại. Không gian kiến trúc từ chính điện đến nhà tăng và các hạng mục xung quanh chùa cổ kim giao hoà làm một, càng tôn lên vẻ huyền bí, linh thiêng. Hoạt động tín ngưỡng ở chùa Cảm Sơn luôn lấy giáo lý nhà Phật làm trọng, tâm hướng thiện ‘từ bi hỉ xả’ để cuộc sống thêm thanh cao thuần khiết. Bởi vậy mà danh thắng núi Nài- Chùa Cảm Sơn mãi luôn gắn bó mật thiết trong đời sống văn hoá tinh thần, tín ngưỡng tâm linh của nhân dân qua nhiều thế hệ.

Dưới màu xanh lâm tuyền, dẫu thế cuộc trải bao thay đổi, tiếng chuông Cảm Sơn tự vẫn dìu dặt ngâng vang, ru cuộc sống thanh bình bên núi Nài, sông Phủ. Để rồi trong công cuộc xây dựng đổi mới quê hương, đất nước hôm nay, người dân phường Đại Nài nói riêng và đạo hữu gần xa nói chung luôn thành tâm hướng về ngôi cổ tự, công đức tôn tạo lại ngôi chùa ngày một tôn nghiêm, bề thế, xứng tầm là một trung tâm phật giáo ở Hà Tĩnh.

Núi Nài- Chùa Cảm Sơn trở thành một địa chỉ du lịch hấp dẫn ngay giữa lòng thành phố Hà Tĩnh, góp phần thiết thực vào việc giáo dục truyền thống yêu nước và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tâm linh của mọi tầng lớp nhân dân.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Nài Xuyên, phường Đại Nài, Thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam

Điện thoại: 02393885160

Facebook: https://www.facebook.com/chuacamson/

freSy with passion

Chùa Xuân Đài

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Xuân Đài nằm vị trí bờ nam sân vận động xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà, tĩnh Hà Tĩnh. Là một ngôi chùa ở đồng bằng duy nhất còn sót lại của xã Thạch Bằng sau chính sách phá bỏ Chùa chiền của những năm 60 thế kỷ trước.

Lịch sử

Qua nghiên cứu bia đá khắc ghi của Chùa để lại cho thấy Chùa được xây dựng vào thời Hậu Lê vào triều đại vua Lê Ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu, xây dựng vào năm Bính Thìn 1736.

Tiếp đến đời vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng năm Đinh tị 1775 chùa được tu tạo lại lần thứ hai.

Tiếp theo đến đời Vua Gia Long nguyên niên 1802 được Vua cho tu tạo lần thứ ba.

Tiếp đến năm thứ 13 đời vua Bảo Đại 1938 chùa lại được tu tạo lần thứ tư.

Vào thập niên 90 của thế kỷ trước chùa được xây dựng thêm một căn nhà phía đông để du khách có chổ dừng chân khi viếng chùa.

Năm Canh Dần 2010 chùa được tu tạo lại, xây thêm một bái đường để có chổ cho khách thập phương làm lễ. Hiện tại dang xây dựng thêm một căn nhà phía đông bái đường để phục vụ cho du khách khi thăm viếng chùa.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa nằm ở vị trí rất đẹp. Ngay câu đầu tiên của văn bia đã viết:

Kỳ quan triết ngự minh tạo tường hải quan, tế minh sử quan minh tạo thiên thu.

Nghĩa là: một kỳ quan nơi cửa biển được tạo ra để phù trì bảo hộ cho người đi biển, qua sông an lành có giá trị mãi cả nghìn năm sau nữa.

Chùa có công cất giữ được 41 sắc rồng của các thế kỷ trước , ngày nay đó là vật báu vô giá cho Quê hương Thạch Bằng nói riêng và Hà Tĩnh nói chung

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà, tĩnh Hà Tĩnh, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Chân Tiên

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Chân Tiên hay Chân Tiên Tự nằm trên núi Tiên An thuộc xã Thịnh Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Chùa Chân Tiên được xây dựng vào thời nhà Trần. Chùa gồm hai ngôi: ngôi bên trái thờ phật và ngôi bên phải thờ thánh mẫu.

Chùa Chân Tiên nằm trên đỉnh núi Tiên An, một trong 99 ngọn núi thuộc dãy Hồng Lĩnh, tọa lạc tại xã Thịnh Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là ngôi cổ tự đẹp, linh thiêng, nằm giữa cảnh quan thiên nhiên xanh tươi, kỳ vĩ. Chùa còn là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa – nghệ thuật. Năm 1992, chùa được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ VH,TT&DL) công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia.

Lịch sử

Sự ra đời của chùa Chân Tiên gắn liền với nhiều truyền thuyết huyền bí. Có truyền thuyết kể rằng, từ lâu lắm rồi, có một đoàn tiên nữ nhà trời xuống thăm thú chốn hạ giới. Mê đắm trước cảnh sắc nên thơ của đỉnh Tiên An, các nàng tiên đã chọn nơi đây làm chốn dừng chân. Các tiên nữ mải mê vui chơi, mê đắm cảnh sắc nơi này nên chẳng chịu rời đi. Một nàng tiên trong số đó vì mê mải đuổi theo con bướm vàng 6 cánh mà vô tình dẫm phải một cái lông nhím khiến chân bị đau nên không thể về trời được. Trước tình cảnh này, các nàng tiên còn lại đã dùng nước suối Ngọc để rửa chân cho nàng. Tương truyền, nơi nàng rửa chân gót ngọc đã in dấu trên mặt đá cùng với dấu chân ngựa thần. Để ghi nhớ sự tích này, người dân trong vùng đã cho xây dựng chùa và đặt tên là chùa Chân Tiên.

Chùa Chân Tiên nằm ở vị trí đẹp, mang lối kiến trúc đặc trưng của thời nhà Trần. Đến đây, ngoài chiêm ngưỡng kiến trúc, cảnh quan đẹp, chiêm bái, cầu an, du khách còn được tìm hiểu về những chứng tích lịch sử thời cận, hiện đại.

Chùa Chân Tiên là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong giai đoạn cận và hiện đại. Du lịch Hà Tĩnh, nhiều du khách thích đến chùa để chiêm bái, cầu bình an và tìm hiểu lịch sử. Theo một số tài liệu lịch sử còn tồn tại đến ngày nay thì chùa từng là căn cứ luyện tập của nghĩa quân trong phong trào Cần Vương (từ năm 1885 – 1896). Đây cũng là nơi tập trung của tầng lớp nho sĩ yêu nước, biểu tình chống thuế ở xứ Trung Kỳ vào năm 1908.

Chùa Chân Tiên còn là nơi nương náu của nhiều cán bộ, sĩ phu yêu nước, các nhà hoạt động cách mạng thời kỳ Đảng ta còn non trẻ. Nơi đây từng diễn ra các sự kiện quan trọng như:

  • Tổ chức thành lập Chi bộ Đảng Yên Điềm vào ngày 25/4/1930
  • Nơi họp bàn kế hoạch chống chiến tranh đế quốc vào ngày 29/7/1930
  • Họp bàn kế hoạch ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga và thực hiện đợt đấu tranh mới của Huyện ủy Can Lộc vào ngày 5/11/1930.
freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Chân Tiên được xây dựng vào thế kỷ XIII, dưới thời Trần nên mang kiểu kiến trúc đặc trưng của thời đại này. Trải qua 3 lần trùng tu, tôn tạo, chùa Chân Tiên ngày nay có 2 ngôi gồm: chùa thờ Phật tổ và chùa thờ Thánh Mẫu.

Chùa Chân Tiên hiện còn có nhiều hiện vật quý như: bàn thờ, lư hương, hương án, trống, mõ, 14 tượng Phật làm bằng gỗ mít… Chùa thờ Phật có diện tích 50,2m2, có tường bao 3 phía. Chùa mang lối kiến trúc kiểu tứ trụ bao gồm 4 cột với 3 gian lợp ngói âm dương.

Chùa thờ Thánh Mẫu (Điện Thánh Mẫu) có tổng diện tích là 56m2, bao gồm Thượng điện, Trung điện và Bái đường. Tất cả đều mang nét đặc trưng của kiến trúc đời Trần. Bước vào trước cửa Thượng điện, du khách sẽ thấy ngay 4 chữ Hán “Thiên hạ mẫu nghi” và hình chim phượng sải cánh bay lên. Trên phần mái của Điện Thánh Mẫu, ở giữa đỉnh nóc có hình mặt nguyệt, bốn góc mái được viền quanh bằng hình rồng và hình hoa lá.

Nhà Trung điện cũng có lối kiến trúc cổ đặc sắc. Trên mái điện có 4 đầu đao với 8 hình rồng, bên trong điện có 8 con hạc chầu, ở hai bên hành lang thờ bộ hạ Thánh Mẫu còn có 2 con hổ phù. Nhà Trung điện chính là nơi dùng để đặt đồ tế lễ và hóa hương của Phật tử, du khách khắp nơi đến viếng chùa. Trước Nhà Bái đường cũng có treo chữ Hán “Tạ Phúc đường”, ở bốn cột có treo các câu đối bằng chữ Hán ca ngợi công đức Thánh Mẫu.

Đến với chùa Chân Tiên, du khách sẽ được ngắm khung cảnh núi rừng nguyên sơ, kỹ vĩ, vô cùng đẹp mắt. Chùa nằm trên đỉnh núi Tiên An, giữa rừng thông xanh mát bốn mùa. Sau khi tham quan chùa, du khách có thể thăm thú thêm các hang động trên núi Tiên An như: Động Đá Người, Động Trúc, Động Mai… cùng các hang đá cổ như Bàn Cờ, hang đá Giã Gạo, hang đá Cối Xay, đá Mười Hai Cửa… Đặc biệt, dưới chân núi còn có đá Vợ, đá Chồng cao lớn, đứng cạnh nhau hướng mặt ra biển Đông.

Dưới chân núi Tiên An còn có Bàu Tiên, Bàn Cờ Tiên. Bên cạnh đó là những dấu tích gắn liền với truyền thuyết xa xưa như: vết chân Tiên nữ, dấu chân ông Bành Tổ, vó Ngựa, suối Ngọc, giếng Tiên, thạch Kim Quy…

Lễ hội chùa Chân Tiên thường diễn ra vào ngày 3 tháng 3 Âm lịch hằng năm. Lễ hội diễn ra trong 2 ngày. Đến đây vào dịp này, du khách sẽ được chứng kiến các nghi thức dâng hương tế lễ, lễ cúng, tham gia lễ hội để hiểu thêm về tín ngưỡng tâm linh của bà con địa phương vùng Lộc Hà, Hà Tĩnh. Ngoài phần lễ, du khách còn được trải nghiệm các hoạt động văn hóa thú vị như: thả diều, đua thuyền trên Bàu Tiên, cắm trại, thi đấu vật truyền thống, kéo co…

Chùa Chân Tiên là ngôi chùa cổ thiêng liêng, gắn với nhiều chứng tích lịch sử quan trọng của dân tộc. Nằm giữa núi rừng kỳ vĩ, trên đỉnh Tiên An đẹp nên thơ, chùa không chỉ là nơi để người dân tìm đến chiêm bái, cầu may mắn, bình an mà còn là nơi nhiều du khách khắp nơi tìm đến tham quan, vãn cảnh.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xã Thịnh Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Kim Dung

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Kim Dung là một địa chỉ đỏ của các phong trào Cần Vương của Cụ Phan Đình Phùng, là nơi mà các sỹ phu yêu nước hoạt động lúc bấy giờ và là nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của xã Thạch Bằng nay là thị trấn Lộc Hà (huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh).

Lịch sử

Ngôi cổ tự là nơi thờ Phật và thờ Đức Thánh Mẫu được Nhân dân tôn lập từ thời Trần vào thế kỷ XIII.

Ngôi chùa này gắn liền với câu chuyện khi Kim Dung và Chữ Đồng Tử về núi Nam Giới để đi học cách kinh doanh buôn bán, từ đó chùa lấy tên là Kim Dung. Nơi đây còn ghi nhiều dấu tích từ thời Trang Vương, Hưng Đạo Vương kinh lý phía Nam khi đi qua vùng đất này thấy cảnh đẹp đã dừng chân nghỉ lại.

Theo cứ liệu lịch sử, chùa Kim Dung là nơi thờ Phật và thờ Đức Thánh Mẫu được nhân dân tôn lập từ thời Trần vào thế kỷ XIII. Chùa gắn liền với câu chuyện khi Kim Dung và Chữ Đồng Tử về núi Nam Giới để đi học cách kinh doanh buôn bán, từ đó chùa lấy tên là Kim Dung. Nơi đây còn ghi nhiều dấu tích từ thời Trang Vương, Hưng Đạo Vương kinh lý phía Nam khi đi qua vùng đất này thấy cảnh đẹp đã dừng chân nghỉ lại và làm việc.

Vào ngày 28/11/1930 nhân dân nơi đây tổ chức cuộc mít tinh biểu tình với quy mô lớn, lấy Yên Bằng Sơn (Thạch Bằng) làm địa điểm kêu gọi đấu tranh sau đó tổ chức tuần hành với các khẩu hiệu: Đánh đổ đế quốc Pháp và Nam triều phong kiến; Thành lập chính phủ công nông binh; Tịch thu ruộng đất địa chủ chia cho nông dân; Bãi bỏ các thứ thuế, ngày làm 8 giờ, nam nữ bình đẳng.

Những ngày đầu cách mạng và cả những thời kỳ cách mạng khó khăn hoạt động bí mật, đỉnh Bằng Sơn luôn rực rỡ tươi thắm lá cờ đỏ búa liềm cổ vũ tinh thần cách mạng và củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Nhân dân trong rừng giờ đây vẫn tự hào kể lại, hễ lá cờ đỏ búa liềm bị hạ xuống, thì sáng sớm hôm sau lại đã phấp phới tung bay trên nền trời Bằng Sơn như một sự thần kỳ. Còn ngôi chùa Kim Dung cổ kính vẫn khiêm tốn nép mình dưới rừng cây kín đáo được sử dụng làm nơi hội họp và liên lạc bí mật của Đảng, tránh những con mắt rình rập của bọn mật thám tay sai.

Chùa Kim Dung cùng với Chùa Chân Tiên (xã Thịnh Lộc), miếu Biên Sơn (xã Hồng Lộc) là những cơ sở hoạt động bí mật của Đảng, góp phần đưa đến những thành công to lớn của cách mạng. Giờ đây, đất nước thanh bình, có dịp tới vãn cảnh chùa và nhớ về những sự kiện năm xưa mới thấy ý nghĩa càng lớn lao, càng thêm trân trọng.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa được xây dựng với nhiều nét kiến trúc tôn giáo hài hòa cổ kính, trong khuôn viên của chùa có tượng Phật Bà Quan Âm cao 18m sừng sững giữa trời mây, tượng Quan Âm Tự Tại, hai bên chùa là hai khe suối, dưới chân chùa có hồ sen. Hơn thế nữa, chùa Kim Dung còn gắn với muôn vàn sự tích và huyền thoại lưu truyền từ bao đời nay về khe Thượng, khe Bầu, đá Ông - đá Mụ, đá Muỗng - đá Thìa, đá Ngai - đá Kiệu, đá Trống - đá Chiêng, đá Trâu - đá Lợn... và biết bao sự tích cỏ cây, hoa lá lung linh sắc màu vừa hư vừa thực.

Dãy núi Bằng Sơn - nơi ngôi chùa tọa lạc là vị trí táng mộ tổ Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh. Nơi đây còn diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, là địa bàn hoạt động của nhiều chiến sỹ yêu nước.

Có thể nói, chùa Kim Dung là một danh thắng nổi tiếng với cảnh sắc thiên nhiên quyến rũ và linh thiêng, phù hợp với loại hình văn hóa tâm linh gắn với du lịch sinh thái. Khi đến đây du khách sẽ cảm nhận được khí hậu thật trong lành bởi một bên là núi, một bên là biển rộng, bốn mùa hương hoa đua nở khoe sắc như chốn “bồng lai tiên cảnh”. Đây là một danh thắng kỳ thú gắn với yếu tố tâm linh ngàn đời, được du khách thập phương sùng kính, ngưỡng vọng về đây chiêm bái, cầu nguyện. Lễ hội chùa Kim Dung được diễn ra vào ngày 14, 15 tháng 3 âm lịch hàng năm.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: núi Bằng Sơn, Thị Trấn Lộc Hà, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam

freSy with passion

Tổng hợp từ Internet

Bài viết khác

The ÂN - Working with love
Tài trợ & Đối tác
KHỞI NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: HÀNH TRÌNH TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG
The ÂN - Working with love
The ÂN - Working with love
Tình yêu thương

đến từ khách hàng của freSy!

Nhận tin mới nhất