Việt Nam

[Bản Đồ Tâm Linh] Tuyên Quang Mới: Hành Hương Qua Đền Chùa Từ Sông Lô Đến Cao Nguyên Đá (Phần I: Tuyên Quang)

Blog


Theo dự thảo Đề án hợp nhất hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, sau sáp nhập sẽ lấy tên gọi là Tuyên Quang, trung tâm hành chính đặt tại Tuyên Quang. Trước thềm sáp nhập, hãy cùng freSy "hành hương" đến vùng đất này - nơi hội tụ trọn vẹn những giá trị tâm linh đặc sắc của cả hai vùng Đông Bắc Việt Nam, nơi giao thoa giữa thiên nhiên hùng vĩ và linh hồn văn hóa Việt. Sau đây là loạt chùa nổi tiếng ở Tuyên Quang (cũ).

Chùa Hang (Hương Nghiêm Tự)

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Hương Nghiêm có tên chữ là Hương Nghiêm tự hay Hương Nham tự mà nhân dân còn thường gọi là chùa Hang (ngôi chùa nằm trong lòng hang động). Chùa được dựng trong động, dưới chân núi Hương Nghiêm thuộc xóm Phúc Thọ, xã An Khang, huyện Yên Sơn, nay thuộc thôn Phúc Lộc, xã An Khang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

Lịch sử

Về lịch sử chùa Hang Tuyên Quang, đây là ngôi chùa được xây dựng từ thế kỷ XVI, dưới thời Mạc Đăng Doanh. Chùa nằm trong quần thể di tích với Thành nhà Bầu và bến Bình Ca, thuộc thôn Phúc Lộc, xã An Khang, thành phố Tuyên Quang.

Điều làm nên sự đặc biệt của chùa Hang chính là vị trí nằm sâu trong một hang đá tự nhiên. Hai vòm mái đá rộng lớn cùng những nhũ đá rủ xuống tạo nên không gian thiêng liêng và huyền bí. Chùa Hang không chỉ là điểm du lịch tâm linh mà còn mang nhiều giá trị lịch sử sâu sắc. Địa điểm này từng là nơi cất giấu và lắp ráp hai chiếc máy bay đầu tiên của không quân Việt Nam, trước khi được chuyển đến sân bay Soi Đúng tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá.

Mặc dù thời gian đã làm mờ nhạt một số chứng tích lịch sử, tuy nhiên chùa Hang Tuyên Quang vẫn lưu giữ được những hiện vật quý giá. Hệ thống tượng thờ và các đồ thờ cúng như hương án vẫn được bảo quản cẩn thận. Chùa được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh và trở thành địa điểm du lịch Tuyên Quang nổi tiếng.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Kiến trúc chùa Hang Tuyên Quang vô cùng độc đáo. Chùa nằm sâu trong hang đá tự nhiên với hai mái vòm cùng nhiều nhũ đá trải dài tạo nên vẻ đẹp kỳ thú và bí ẩn. Trước đây, hang động này từng sở hữu một giếng sâu 8 - 9 mét, kế bên là một dòng suối ngầm rộng khoảng 3 mét chảy ra sông Lô. Trong hang còn có phiến đá lớn hình chiếc thuyền, rộng 4 mét, chiều dài 8,7 mét.

Những năm gần đây, chùa Hang đã được trùng tu với quy mô hoành tráng hơn xưa. Khu vực thờ tự vẫn được giữ nguyên trong lòng hang động, với ban Tam bảo gồm 13 pho tượng được điêu khắc tinh xảo từ đá. Các tượng được sắp xếp theo từng hàng một cách trang nghiêm, từ ba pho tượng Tam thế ở trên cùng, đến các tượng Phật và Bồ Tát được đặt đối xứng. Tất cả tạo nên một không gian tâm linh tĩnh lặng và thiêng liêng.

Chùa Hang Tuyên Quang hiện vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị. Trong đó phải kể đến tấm bia cổ được khắc trên vách đá ngày 27 tháng 2 niên hiệu Đại Chính thứ 8 đời Thái Tông Mạc Đăng Doanh. Tấm bia ở trước cửa chùa, có chiều cao 1,25m, rộng 1m. Trán bia có chạm hình lưỡng long chầu nguyệt, dưới trán bia khắc 4 chữ đại tự: “Hương Nghiêm tự bi”.

Tấm "bi ký" chữ Hán do tiến sĩ Ngô Hoằng soạn thảo, không chỉ là tài liệu ghi chép thông thường mà còn là bản sử liệu quý giá. Nội dung bia ghi lại tên tuổi những người có công đức từ 13 huyện và nhân dân xã Thúc Thủy.

"Hương Nghiêm tự bi" trước cửa chùa Hang Tuyên Quang được xem như một trong những tư liệu thành văn hiếm hoi của thế kỷ 16 được phát hiện tại Tuyên Quang. Giá trị lịch sử và văn hóa của tấm bia đã được ghi nhận và ngôi chùa vinh dự được công nhận là di tích cấp tỉnh.

Lễ hội ở chùa Hang là một trong những lễ hội Tuyên Quang nổi tiếng, được tổ chức vào ngày mùng 6 đến mùng 8 tháng Giêng Âm lịch hàng năm. Cứ vào thời gian này, dân làng ở đây mở hội tế lễ cùng trò chơi dân gian, thu hút đông đảo du khách về tham gia lễ rước nước và lễ cầu bình an.

Nước được cúng trong ngày hội và làm lễ trong suốt cả năm là nước được lấy từ sông Lô. Ngoài ngày lễ chính, cứ vào dịp mùng 1 hay ngày rằm hàng tháng, dân làng cũng đến chùa Hang Tuyên Quang để thắp hương, cầu mong mùa màng bội thu, nước thịnh, dân khang.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Phúc Lộc, xã An Khang, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam

freSy with passion

Thiền viện Trúc Lâm Chính Pháp

freSy with passion

Giới thiệu

Nhắc đến các Thiền viện Trúc Lâm Chính Pháp ở khu vực phía Bắc, không thể không nhắc tới Thiền viện Trúc Lâm Chính pháp Tuyên Quang. Với vị trí, cảnh quan thiên nhiên “sơn thủy hữu tình”, thơ mộng và hùng vĩ cùng các hoạt động ý nghĩa tại thiền viện, nơi đây đã thu hút đông đảo nhân dân, du khách thập phương đến tham quan, chiêm bái và tu tập.

Thiền viện Trúc Lâm Tuyên Quang nằm ở vị trí đắc địa, dưới chân núi Dùm, thuộc xã Tràng Đà, Thành phố Tuyên Quang. Núi Dùm là một ngọn núi hùng vĩ, có độ cao 1.300m so với mực nước biển. Vị trí này giúp chùa Thiền viện Trúc Lâm Tuyên Quang sở hữu một phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, mang đậm bản sắc của núi rừng Đông Bắc.

Lịch sử

Thiền viện Trúc Lâm Chính pháp Tuyên Quang chính thức được xây dựng từ năm 2019, tại xã Tràng Đà (TP Tuyên Quang) với 5 hạng mục chính, do Đại đức Thích Trúc Thông Phổ trụ trì.

Thiền viện Trúc Lâm Chính pháp Tuyên Quang được khởi công trên diện tích đất khoảng hơn 20 ha. Đến nay, hạng mục chính là Tòa Tam Bảo đã cơ bản hoàn thành. Được đánh giá đây sẽ là một công trình kiến trúc mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam.

Đây sẽ là một địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn và thu hút đông đảo du khách đến tham quan, chiêm bái. Đến với thiền viện, du khách sẽ được hòa mình vào không gian thanh tịnh, yên bình của chốn cửa Phật, đồng thời chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo của thiền viện.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Thiền viện Trúc Lâm Tuyên Quang được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của Việt Nam, mang đậm dấu ấn của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Chánh điện là công trình chính của Thiền viện, được xây dựng theo hình chữ “Đông”. Mái chùa được lợp bằng ngói Bát Tràng, có ba tầng, tượng trưng cho ba tầng trời. Các cột trụ của chùa được làm bằng gỗ lim, có đường kính hơn 1m, tạo nên vẻ uy nghi và trầm mặc.

Bên trong Chánh điện là nơi thờ Phật Thích Ca Mâu Ni và các vị Phật khác. Các pho tượng Phật được làm bằng gỗ quý, có kích thước lớn, mang nét mặt từ bi và hiền hòa. Hai bên Chánh điện là các gian thờ Tổ và các vị Bồ Tát.

Tọa lạc tại điểm cao nhất của tòa tháp là tượng phật Thích Ca Mâu Ni tay cầm cành hoa sen cao 18m, ngang 12m, đài sen cao 4m.

Từ vị trí tầng 3 của tòa tháp, phóng xa tầm mắt, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp toàn cảnh của khu vực trung tâm thành phố Tuyên Quang với núi non hùng vĩ, dòng Lô lịch sử hào hùng, cùng những cây cầu thơ mộng của Thành Tuyên...

Bên cạnh những nét đẹp cổ kính, Thiền viện Trúc Lâm Chính Pháp Tuyên Quang còn được thiết kế với những công trình hiện đại, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tu học của chư Tăng và Phật tử.

Thiền viện có khu giảng đường được xây dựng kiên cố, với hệ thống âm thanh và ánh sáng hiện đại. Khu nhà khách được xây dựng khang trang và có khả năng phục vụ hàng nghìn lượt du khách mỗi ngày.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: chân núi Dùm, xã Tràng Đà, Thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Trùng Quang

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Trùng Quang nằm trên địa phận tổ 2, phường Minh Xuân (thị xã Tuyên Quang). Chùa có khuôn viên rộng gần 1.000m2, toạ lạc trên một khu đất cao, rộng và thoáng, thế đất lành theo thuyết phong thuỷ “tiền minh đường, hữu hậu chẩm”.

Ngày 19/11/2007, chùa Trùng Quang được vinh danh là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh – một sự công nhận xứng đáng cho vẻ đẹp và giá trị văn hóa mà ngôi chùa gìn giữ suốt bao năm tháng.

Lịch sử

Theo “Tuyên Quang tỉnh phú” (viết bằng chữ Hán năm 1861, dịch bởi Ngô Thế Long), chùa xưa mang tên Xuân Lôi, được thành lập vào niên hiệu Trinh Phù thứ 10 (1185) dưới triều Lý Cao Tông. Về sau, hai ngôi Phúc Lâm và Quang Tự gần nhau tại phố Xuân Hòa đã được hợp nhất, tượng Phật và đồ thờ từ Quang Tự chuyển sang Phúc Lâm, rồi xây dựng mở rộng thành ngôi chùa lớn.

Năm 1700, Tham tụng Nguyễn Quý Đức tổ chức trùng tu lớn, mở rộng quy mô và tu bổ kiến trúc, đánh dấu sự khang trang mới cho ngôi chùa.

Đến đời vua Đồng Khánh (1888), chùa tiếp tục được xây dựng lại quy mô hơn; nhân dân vẫn quen gọi là Chùa Xuân Hòa vì nằm trên phố Xuân Hòa.

Sau nhiều biến cố chiến tranh, chùa xuống cấp nặng. Năm 1990 chùa được trùng tu lần nữa, đổi tên thành Trùng Quang và chuyển về vị trí hiện tại trên đất Tổ 2, phường Minh Xuân (TP Tuyên Quang).

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa có khuôn viên rộng gần 1.000m2, toạ lạc trên một khu đất cao, rộng và thoáng, thế đất lành theo thuyết phong thủy “tiền minh đường, hữu hậu chẩm”.

Chùa lấy dòng sông Lô uốn khúc làm tiền minh đường, lại có dãy núi cao Tràng Đà làm bức bình phong, phía sau lấy núi Cố làm hậu chẩm, tất cả tạo nên một thế đất “rồng cuộn, hổ chầu”. Ở thế đất địa linh, sơn kỳ, thủy tú, phong cảnh hữu tình, chùa đã được tôn thêm vẻ đẹp thanh tao thoát tục gắn kết giữa cảnh sắc thiên nhiên của tạo hoá với bàn tay con người.

Rồng cuộn (Long Bàn) tượng trưng cho sự huyền bí, mạnh mẽ và quyền uy. Rồng là linh vật đại diện cho thiên khí, có khả năng tích tụ và luân chuyển sinh khí. Khi nói "rồng cuộn", ý chỉ thế đất có sự uốn lượn, bao bọc, hội tụ sinh khí, mang đến sự thịnh vượng lâu dài.

Hổ chầu (Hổ Cứ) biểu trưng cho sự vững chắc, kiên cố và bảo vệ. Hổ là loài vật mang ý nghĩa trấn giữ, bảo hộ và tạo sự an ổn. Hổ chầu nghĩa là thế đất có sự ôm ấp, che chắn, tạo thành một địa thế vững vàng.

Với địa thế “rồng cuộn, hổ chầu”, chùa Trùng Quang không chỉ là một công trình tâm linh mà còn là một nơi hội tụ khí thiêng đất trời, giúp tăng trưởng năng lượng tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tu tập và hành đạo.

Như một bức thủy mặc hữu tình, chùa Trùng Quang tựa lưng vào núi, hướng mặt ra sông, đón lấy sinh khí trời đất. Trước chùa, dãy núi Tràng Đà như tấm bình phong vững chãi, che chở cho chốn thiền môn khỏi những xô bồ của thế tục. Sân chùa rợp bóng cây cổ thụ, nơi những cành lá xòe rộng, rì rào trong gió như lời kinh vô ngôn, an ủi những tâm hồn đang tìm kiếm sự bình an. Bên trong, những pho tượng cổ trầm mặc dưới ánh sáng lung linh của nến, những quả chuông đồng in dấu thời gian, tất cả đều là những mảnh ghép quý giá trong bức tranh lịch sử văn hóa của vùng đất Tuyên Quang.

Chùa hiện bảo lưu nhiều nét sinh hoạt văn hoá truyền thống dân gian, lưu giữ nhiều di vật, hiện vật giúp cho các nhà khoa học nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, phong cách kiến trúc, nghệ thuật. Hiện nay trong chùa còn giữ được 4 pho tượng cổ, và 2 quả chuông đồng to. Trong khuôn viên chùa vẫn còn một cây nhãn có tuổi đời gần 100 năm tuổi.

Hàng năm, chùa Trùng Quang có các ngày lễ vào ngày mồng 10 tháng Giêng (đây là lễ Thượng Nguyên để giải hạn), mùng 2 tháng 5 (là ngày Bà Chúa bản), mùng 10 tháng 4 (là lễ cầu hè), ngày 16 tháng 2 và tháng 7 (là lễ hoàn cung, có rước tượng Mẫu). Ngoài ra, còn có các ngày lễ, tết khác trong năm theo âm lịch.

Chùa Trùng Quang không chỉ là nơi của những nghi lễ tôn giáo mà còn là điểm tựa tinh thần cho bao người. Tiếng mõ, lời kinh, ngân vang như dòng suối mát lành xoa dịu những muộn phiền, đưa con người trở về với sự an nhiên, nhẹ nhõm. Giữa nhịp sống hối hả, chùa vẫn lặng lẽ an nhiên, như một nốt trầm đầy chất thơ trong bản giao hưởng của đất trời Tuyên Quang.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: 20 tổ 2, đường Xuân Hòa, phường Minh Xuân, thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc tọa lạc ở thôn Bảo Ninh, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Chùa có địa thế cao ráo, xung quanh rợp bóng cây xanh tốt, tạo không khí bình yên, thanh tịnh nhưng cũng rất trang nghiêm.

Lịch sử

Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc được xây dựng năm 1107 dưới thời vua Lý Nhân Tông, toạ lạc tại thôn Bảo Ninh, xã Yên Nguyên (Chiêm Hoá). Ngôi chùa do một dòng họ thế tập đứng ra xây dựng, người chủ trì là Hà Hưng Tông, hậu duệ thứ 15 giữ chức châu mục châu Vị Long. Đây là ngôi chùa cổ nhất hiện ở Tuyên Quang, là nơi còn lưu giữ được tấm bia quý giá từ thời Lý.

Trải qua thăng trầm của nghìn năm lịch sử, chùa Bảo Ninh Sùng Phúc đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần nhưng nền chùa xưa vẫn còn cùng với những cổ vật quý giá còn sót lại, đã trở thành tư liệu quan trọng để các nhà nghiên cứu tìm hiểu. Năm 2013, tấm bia thời Lý được công nhận là Bảo vật quốc gia. Tháng 12-2023, Di tích khảo cổ địa điểm chùa Bảo Ninh Sùng Phúc được Bộ Văn hoá, Thể thao và du lịch xếp hạng là Di tích quốc gia.

Chùa Bảo Ninh Sùng Phúc là một trong 10 di tích quốc gia trên tổng số 146 di tích được xếp hạng trên địa bàn huyện, khẳng định vị thế quan trọng trong bức tranh di sản văn hóa của tỉnh Tuyên Quang.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Tấm bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc được tạc bằng đá xanh nguyên khối. Bia có chiều cao 1,39m rộng 0,8m và dày 0,18m. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá; rùa có chiều dài 1,50m, rộng 0,9m và cao 0,32m, cổ và đầu rùa dài 0,38m. Phần chân bia dài 0,59m; rộng 0,09m cắm vào lưng rùa. Rùa được đặt trên mặt đất, 4 chân tạc nổi, mỗi chân có 5 móng, đuôi rùa mỏng được tạc uốn cong; đầu rùa ngẩng cao, vẻ uy nghi đường bệ. Toàn thân rùa được chạm trổ tinh tế, mềm mại, hình khối cân đối và vững chãi. Lưng rùa nhẵn và tròn trịa, giữa lưng có đục một mộng ghép hình chữ nhật để ghép chân bia. Diềm bia trang trí bằng các hoa văn kiểu hoa mướp cách điệu uyển chuyển và liên hoàn, hai bên cạnh bia trang trí hình rồng, các hình tròn bên trong có hình cánh hoa sen xen kẽ nhau nằm trong một hình tròn lớn. Trán bia khắc dòng chữ lớn: "Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi".

Văn bia khắc kín phần thân bia. Hai góc của trán bia khắc hình 2 con rồng với đặc trưng nổi bật của rồng thời Lý. Thân rồng hình tròn trịa có nhiều khúc uốn lượn, thân dài và nhỏ dần về phía đuôi, rồng uốn khúc nhẹ nhàng thanh thoát với nhiều hình tròn được nối với nhau thành một chuỗi dài liên tiếp. Đầu rồng cân đối với thân rồng và có bờm khá dài ở sau gáy. Hai con rồng chầu hai bên trán bia đều ở tư thế nhìn nghiêng và giống hệt nhau cả về kích thước cũng như kiểu dáng. Làm nền cho hình tượng rồng là các hoa văn hình vân mây và một số hoa văn hình chữ S, biểu hiện ý niệm về mây mưa, sấm chớp với mong muốn mưa thuận gió hoà, nhân tố thiết yếu đối với nền kinh tế nông nghiệp. Hình tượng con rồng cũng phản ánh ý thức sùng bái tổ tiên của người Việt (truyền thuyết con rồng, cháu tiên). Chân bia được trang trí bằng các hoa văn hình sông nước nối tiếp nhau. Toàn bộ bia toát lên dáng vẻ vững vàng, bền chắc về hình khối, văn bia chạm khắc sắc sảo nét chữ chân phương, đường nét trang trí tinh xảo, mềm mại và mang những đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc, trang trí thời Lý.

Bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc cũng là minh chứng cho sự giao lưu văn hóa rộng rãi giữa miền núi với miền xuôi, là nguồn tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu các vấn đề về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... của vùng đất Tuyên Quang nói riêng và Việt Nam nói chung dưới chế độ phong kiến tập quyền.

Hiện nay, bên cạnh tấm bia cổ có thêm tấm bia mới, nội dung văn bia mới chính là nội dung tấm bia cổ được dịch ra chữ quốc ngữ để tiện cho du khách tham quan, tìm hiểu. Năm 2007, văn bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc được công nhận là Bảo vật quốc gia. Tháng 12 năm 2023, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã quyết định xếp hạng Di tích quốc gia đối với chùa Bảo Ninh Sùng Phúc. Bia và chùa Bảo Ninh Sùng Phúc không chỉ là báu vật, di tích quốc gia cần được gìn giữ, bảo tồn và phát huy, mà còn trở thành điểm du lịch văn hoá, tâm linh thu hút đông đảo du khách thập phương đến chiêm bái, tham quan, vãn cảnh.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Bảo Ninh, xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Phật Lâm (chùa Núi Man)

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Phật Lâm còn có tên gọi khác là chùa Núi Man thuộc thôn Trại Xoan, xã Nhữ Hán. Chùa nằm trên đồi Gò Chùa ở lưng chừng dãy núi Man và dựa lưng vào núi, bên phải là dãy núi Là, bên trái là dãy núi Nghiêm. Muốn lên chùa, du khách hành hương phải leo bộ theo những con dốc cao dựng đứng men theo những tán cọ rừng già xanh mướt. Ngôi chùa nhỏ nhắn, nhưng mang trên mình những dấu ấn lịch sử linh thiêng và là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, bà con phật tử gần xa và điểm đến du lịch văn hóa tâm linh của tỉnh và cả nước.

Lịch sử

Di tích Chùa Phật Lâm, xã Nhữ Hán, huyện Yên Sơn được xây dựng vào khoảng thế kỷ XIII, XIV thời Trần. Đây là một trong số ít những ngôi chùa thời Lý - Trần hiện được biết đến của tỉnh Tuyên Quang có cấu trúc rõ ràng nằm trong tuyến phát triển của hệ thống Phật giáo Việt Nam ở vùng Đông Bắc nước ta.

Chùa Phật Lâm còn có tên gọi khác là Chùa Núi Man, thuộc thôn Trại Xoan, xã Nhữ Hán, huyện Yên Sơn được xây dựng và khoảng thế kỷ thứ X- XIV thời nhà Lý - Trần, tồn tại qua các thời Lê, Mạc đến đời Nguyễn thì bị hư hỏng do tác động của thời gian. Năm 2006 và 2007, Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang đã phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành các đợt thám sát khảo cổ và tiến hành trùng tu xây dựng lại chùa.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Hằng năm, Chùa mở hội chính vào ngày mùng 09 tháng giêng âm lịch đã thu hút đông đảo du khách đến tham quan du lịch. Đến với Yên Sơn ngoài các điểm đến tiêu biểu nêu trên, du khách có thể tham quan các vườn cây ăn quả, trang trại, gia trại đẹp tại các xã Phúc Ninh, Xuân Vân, Thắng Quân, Tứ Quận, Hoàng Khai, Kim Phú và thưởng thức các đặc sản tiêu biểu của địa phương.

Năm 2006-2007, Bảo tàng tỉnh đã phối hợp với Viện khảo cổ học Việt Nam tiến hành 2 đợt thám sát khảo cổ học và cho kết quả chính chính xác về việc phát lộ dấu tích ngôi chùa với nhiều hạng mục kiến trúc như: Nền chùa, sân chùa, tháp mộ và hàng trăm hiện vật có trang trí kiến trúc tinh xảo mang đậm phong cách văn hóa Phật giáo Đại Việt, với diện tích trên 1.800m2. Đó là một cấu trúc hoàn chỉnh, ít ngôi chùa thời nay có được.

Cùng với các di vật trên, những đồ dùng sinh hoạt, thờ cúng bằng sành sứ, đồng, đất nung từ thế kỷ XIII-XIV đến thế kỷ XV-XVI cũng được phát hiện. Đây là một trong 3 ngôi chùa thời Lý – Trần hiện được biết đến của tỉnh có cấu trúc rõ ràng nằm trong tuyến phát triển của hệ thống Phật giáo Việt Nam ở vùng Đông Bắc nước ta. Phía chân đồi, cách di tích ngôi chùa cổ khoảng 200m là một chiếc giếng cổ có niên đại cùng thời với chùa.

Chiếc giếng có lòng hình tròn, đường kính bên trong là 1,31m; đường kính bên ngoài là 1,53m. Giếng được xây bằng những viên gạch khối chữ nhật, có kích thước khá đều nhau, gạch được xây nghiêng, bề mặt trong của gạch cong lõm hình lòng máng, tạo độ cong tự nhiên của lòng giếng. Tham quan và tìm hiểu những di tích cổ xưa của chùa, du khách sẽ cảm thấy rất thú vị và phát hiện được nhiều điều mới lạ.

Chính vì những ý nghĩa lịch sử, văn hóa đó, UBND xã Nhữ Hán đã chọn ngày 9 tháng Giêng để tổ chức Hội xuân Chùa Phật Lâm. Ngày hội diễn ra trang trọng, gồm phần lễ và phần hội. Dự phần lễ các đại biểu và đông đảo du khách thập phương cùng dâng hương cầu quốc thái, dân an; cùng thả những cánh chim bồ câu thể hiện ước mong hòa bình và hạnh phúc đến với mọi người, mọi nhà.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Trại Xoan, xã Nhữ Hán, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam.

freSy with passion

Chùa Đại Bi

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Đại Bi tọa lạc trên một quả đồi ở xóm Đô Thượng 4, xã Xuân Vân (Yên Sơn). Bước qua cổng chùa, có nhiều phiến đá to, bằng phẳng, chồng xếp lên nhau, phân bố rải rác từ chân đến lưng đồi, tạo nên khung cảnh thiên nhiên đẹp lạ cho ngôi chùa.

Lịch sử

Theo truyền thuyết, khu đất của chùa có thế đầu rồng. Hai bên cửa chùa có hai giếng nước tròn người dân nơi đây vẫn quen gọi là hai mắt rồng. Nài thờ Phật chùa Đại Bi còn thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, Thiền sư Giác Hải, Đức Bồ Đề Đạt Ma và thờ mẫu.

Ba vị thiền sư đi bộ hơn hai năm sang Tây Trúc được Phật truyền cho “Tâm ấn lục trí thần thông”. Sách “Việt điện u linh” viết “Đạo Hạnh, Minh Không và Giác Hải sang Ấn Độ, Tây Thiên học được phép lạ. Khi về nước Đạo Hạnh dừng chân ở Sài Sơn dựng lên Chùa Thầy. Ba vị Đạo Hạnh, Minh Không và Giác Hải trở thành ba vị thánh tổ ở nước ta triều Lý.

Chùa Bi được xây dựng từ năm Thông Thụy thứ 3(1037) đời vua Lý Thái Tông trải qua nhiều biến đổi chùa hiện nay chỉ còn một số viên đá tảng là di tích của lần xây dựng ban đầu. Chùa Đại Bi là một công trình kiến trúc dân tộc cổ kính, đặc sắc, một di sản quý giá của quê hương Nam Giang nói riêng và của cả nước nói chung nên đã được bộ văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa theo quyết định số 519TTG của thủ tướng chính phủ ngày 29 tháng 10 năm 1957.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Đến thăm chùa, ta thấy gần gũi bởi chùa nằm xen kẽ giữa các hộ dân, bên những hàng tre, cây xanh tỏa bóng mát. Hệ thống kiến trúc của chùa có nhiều nét độc đáo. Tam quan (cổng chùa) không nằm chính giữa mà được xây chếch về phía đông. Tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu đến nay Tam quan vẫn còn giữ lại nhiều nét chạm khắc thời Hậu Lê (thế kỷ XVII –XVIII).

Qua Tam quan là khoảng sân rộng, mái chùa trải rộng, hơi thấp, những đao góc cân xứng vút lên tạo cho kiến trúc chùa nhẹ nhàng, thanh thoát. Bộ cửa gỗ tại gian giữa tòa bái đường được chạm khắc hình rồng, hoa lá, vân mây cách điệu. Trong chùa bài trí các tượng phật như mọi ngôi chùa Việt Nam khác. Điều khác biệt ở chùa Đại Bi là phía phải Tam bảo có khám thờ Thánh tổ Từ Đạo Hạnh và Giác Hải Thiền sư là những người có nhiều công lao với phật pháp nước nhà. Ở lĩnh vực phật giáo các thiền sư được coi là những thánh tăng, trên lĩnh vực xã hội được coi là những thành hoàng làng, người có công lao truyền dạy nghề cho dân…

Các pho tượng ở chùa Đại Bi được tạc khá hoàn mỹ. Nài ra còn nhiều đồ thờ và câu đối có giá trị về lịch sử và nghệ thuật.Sau chùa có gác chuông kiến trúc kiểu chồng diêm, 8 mái với các đầu đao vút cao mềm mại thanh thoát. Đây là công trình có giá trị nhất của chùa Đại Bi.

Sau gác chuông là nhà thờ tổ, nơi thờ đức Bồ Đề Đạt Ma vị tổ thứ 28 và là vị sư tổ của phái thiền. Chùa Đại Bi còn có gian thờ Mẫu, một tín ngưỡng dân tộc mà người dân Việt Nam hằng thực hiện từ bao đời nay.

Qua bao thăng trầm của lịch sử, sự tàn phá của thiên nhiên và giặc dã, chùa Đại Bi vẫn được giữ gìn và thường xuyên tu bổ. Hiện nay chùa vẫn giữ được khá nhiều di vật có giá trị. Đó là một số chân cột đá tảng của những lần xây dựng trước đây ở Tam quan. Trong gian thờ Phật vẫn còn giữ lại một số bức chạm rồng, lá, mây tản…mang đậm phong cách thời Hậu Lê.

Với lối kiến trúc nội công nại quốc, chùa Đại Bi có tới 60 gian phần lớn làm bằng gỗ lim. Toàn bộ di tích được bố cục cân đối chắc khỏe. Từ nài nhìn vào, chùa như được nâng cao trong kiến trúc và như được trải rộng ra, đồ sộ theo một trục chính khiến cho tổng thể công trình có thế vươn lên. Với hai dãy hành lang thấp dần, mộc mạc càng làm tôn thêm vẻ đẹp của chùa.

Từ lâu chùa Đại Bi đã trở thành nơi du nạn của khách thập phương, nhất là vào dịp hội chùa đầu xuân từ 20 đến 23 tháng Giêng (âm lịch). Trong dân gian người ta vẫn truyền nhau câu ca:


Hai mươi phát tấu chùa Bi
Trai đi được vợ, gái đi được chồng

Ngoài việc đi lễ chùa đầu năm, chúng ta còn được thưởng thức rất nhiều hoạt động văn hóa dân gian độc đáo như: Lễ rước, kéo chữ, đấu vật, cờ người, tổ tôm điếm…Đặc biệt trò hát rối đầu gỗ chùa Bi vẫn là một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh rất độc đáo vừa mang yếu tố tín ngưỡng vừa mang tính giáo dục về đạo đức lối sống cho mọi người.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: xóm Đô Thượng 4, xã Xuân Vân, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Phúc Lâm

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Phúc Lâm (có tên gọi từ ngày xưa, còn gọi là Phúc Lâm Tự, có nghĩa là ban phúc, phúc lành cho núi rừng) nằm ở thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình. Là một ngôi chùa có lịch sử lâu đời, đã trở nên quen thuộc và gần gũi với mọi thế hệ người dân trong và ngoài huyện. Mặc dù là một ngôi chùa nhỏ, nhưng Phúc Lâm ẩn chứa các dấu tích của một nền văn hoá xưa đầy tự hào và mang dáng dấp hoạt động tín ngưỡng của cư dân vùng cao.

Lịch sử

Trải qua bao thế hệ, những người cao niên tại Thượng Lâm – Lâm Bình thường kể cho con cháu về truyền thuyết phượng hoàng về làm tổ trên vùng đất mình sinh sống. Theo truyền thuyết kể rằng, vùng đất này là nơi giao hòa giữa trời và đất, địa khí phong thủy, hữu tình. Vào một ngày kia người dân trong vùng chợt nhìn thấy một đàn phượng hoàng bay về, mỗi con đậu trên một ngọn núi để làm tổ. Nhưng chỉ có 99 ngọn núi đủ để 99 con đậu, còn một con bay lượn đi, lượn lại không tìm thấy chỗ đậu bèn vỗ cánh bay đi. Vậy là, cả đàn lại bay theo con chim đó, để lại dấu tích 99 ngọn núi với hình dáng chim phượng hoàng, mỗi ngọn núi một thế đứng khác nhau tạo thành quần thể núi đá sinh động bao quanh lòng chảo Thượng Lâm trù phú. Ngọn núi ở phía sau chùa Phúc Lâm cao sừng sững, người dân trong vùng vẫn quen gọi là ngọn núi cổ Rùa gắn với sự tích “Chiếc cầu da” ở nơi “Sơn kỳ, thuỷ tú” càng làm cho quần thể ngôi chùa và thung lũng Thượng Lâm thêm màu huyền thoại.

Theo nghiên cứu, ngôi chùa cổ xưa kia được làm chủ yếu bằng gỗ, khá phổ biến ở những ngôi chùa làng vùng Trung du Bắc bộ. Khuôn viên chùa nằm trên gò đất rộng khoảng 600m2. Chùa Phúc Lâm ngoài thờ phật còn thờ các vị thần bản địa, gắn bó trực tiếp với cuộc sống thường ngày của bà con nơi đây. Đây cũng là nét sinh hoạt tín ngưỡng độc đáo của ngôi chùa ở vùng cao.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Tại chùa Phúc Lâm đã phát hiện tổ hợp các mảnh tháp đất nung gồm: mái tháp, thân tháp, đế tháp và các mảng phù điêu trang trí kiến trúc với các chủ đề như: rồng, chim phượng hoàng, mảnh tháp có trang trí hình cánh sen cách điệu ở đế tháp. Các mảng phù điêu hình rồng mang đặc trưng tranh rồng thời Trần như: bờm chải ngược uốn cong hướng lên trên đỉnh đầu, mắt mở to, chân có 3 móng vuốt... các hiện vật được tạo dáng hình khoẻ khoắn, đường nét điêu khắc rõ ràng.

Các hiện vật còn được lưu giữ tại chùa như: Mảng trang trí vật liệu kiến trúc bằng đất nung, bình đồ kiến trúc của ngôi chùa, các mảng tháp đất nung cùng hệ thống tượng thờ… đã chứng minh chùa Phúc Lâm ra đời trong khoảng thời gian giữa thế kỷ XIII và XIV (dưới thời Trần) theo những phế tích còn lại cho thấy: Toà tiền đường có kích thước là 15m x 6m, đây là nơi để nhân dân địa phương tới hành lễ vào các ngày rằm và mùng một hàng tháng. Đặc biệt trên nền của ngôi chùa xưa đã phát hiện được 14 tảng kê chân cột bằng đá xanh hình vuông, có một số tảng kê chân cột vẫn còn đặt ở vị trí khởi nguyên của nó.

Các pho tượng ở đây mang nhiều nét đặc trưng của cư dân văn hoá vùng cao. Theo các nhà khảo cổ thì các pho tượng này có niên đại khoảng thế kỷ XIV, là một trong số ít tượng thờ ở vùng núi phía Bắc có niên đại sớm. Tượng được làm bằng gỗ, để mộc không sơn son thiếp vàng. Tượng có khuôn mặt nữ, đầu búi tóc trên đỉnh, phía dưới của tượng đã bị hư hại nhiều. Giữa gian tiền đường là nơi đặt hương án, phía sau nhang án là phật điện (Toà Tam bảo). Toà Tam bảo của chùa Phúc Lâm có bốn lớp tượng phật, bệ được làm theo kiểu giật cấp, các pho tượng đều được làm bằng gỗ, để mộc ở tư thế ngồi thiền trên toà sen; các pho tượng mang nhiều nét văn hoá của cư dân vùng cao; tượng không được chạm khắc trau chuốt, các đường nét không mềm mại nhưng rất có hồn, dáng vẻ tự nhiên (giống như tượng tạc ở nhà mồ của các đồng bào Tây Nguyên).

Ngoài các hiện vật mà Bảo tàng Tuyên Quang phát hiện, một số hiện vật gắn liền với dấu tích ngôi chùa cổ vẫn đang được đồng bào ở xã Thượng Lâm gìn giữ như những báu vật. Trong đó, có hơn một chục bức tượng thờ cùng các hiện vật có giá trị khác. Đây là những hiện vật đã tồn tại hàng trăm năm nay, được sáng tạo từ đôi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân dân gian.

Hàng năm, cứ vào dịp lễ tết (nhất là dịp lễ hội Lồng Tông vào ngày 15 tháng giêng), nhân dân và du khách gần xa đến với Lâm Bình đều hướng tới ngôi chùa Phúc Lâm để tham quan, cầu an, cầu lộc, cầu cho mùa màng bội thu. Đây sẽ là một điểm đến thu hút người dân và du khách thập phương mỗi dịp tết đến xuân về, mở ra hướng phát triển mới cho du lịch của huyện vùng cao Lâm Bình.

Năm 2009, Bộ Văn hoá, thể thao và Du lịch đã xếp hạng chùa Phúc Lâm trở thành Di tích quốc gia. Đây là niềm tự hào và cũng đặt ra cho chính quyền và nhân dân địa phương trách nhiệm trong việc gìn gữi và bảo tồn di tích văn hoá cấp Quốc gia đối với chùa Phúc Lâm. Năm 2012, UBND huyện Lâm Bình đã triển khai thực hiện dự án công trình tu bổ, phục hồi và phát huy giá trị truyền thống chùa Phúc Lâm. Theo đó, chùa được dựng bằng gỗ ở chính vị trí chính giữa toà Tam bảo của ngôi chùa xưa, kiến trúc hình chữ Nhất theo phong cách kiến trúc cổ Việt Nam. Việc tồn tại ngôi chùa Phúc Lâm qua nhiều thế kỷ, chứng tỏ rằng, dưới triều đại nhà Trần, kinh tế, văn hoá ở mảnh đất này đã rất phát triển và đã có sự giao thoa về phương diện văn hóa giữa đồng bào dân tộc Tày miền núi với các địa phương khác trong cả nước.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Nà Tông, xã Thượng Lâm, huyện Lâm Bình, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam

freSy with passion

Chùa Phổ Linh

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Phổ Linh tọa lạc trên một quả đồi cao, bốn bề rợp bóng cây tại xã Kim Phú (Thành phố Tuyên Quang). Ngôi chùa ban đầu mang tên “Chùa Làng Dao” vì vốn là quần thể gồm đình, đền và miếu của làng Dao, sau đó được hợp nhất và đổi tên thành Phổ Linh

Lịch sử

Theo truyền khẩu và ghi chép tại địa phương, trước đây khu vực này có ba công trình tín ngưỡng tách biệt: đình làng thờ Thành Hoàng, đền thờ Đức Thánh Trần và miếu thờ Mẫu Liễu Hạnh. Để thuận tiện cho việc lễ bái, nhân dân đã di dời ba công trình về chung một khuôn viên, lập thành “Chùa Làng Dao”. Về sau, ngôi chùa được đổi tên thành Chùa Phổ Linh như ngày nay.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa có 4 mái nhà độc lập, hiện còn giữ 1 quả chuông nặng khoảng 1 tạ hơn trăm năm tuổi. Trước cổng chùa có pho tượng Quan thế âm Bồ Tát uy nghiêm được đặt giữa hồ với kiến trúc phật giáo miền Bắc, phía trước là sân khấu nổi, ở giữa đặt tượng Quan Âm và phía sau là thủy đình tạo nên một cảnh sắc tuyệt mỹ và uy nghiêm. Ở giữa chùa là Tam bảo thờ Phật, bên phải là đình thờ Thành Hoàng làng và đền thờ Đức Thánh Trần, bên trái là phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh.

Chùa có nhiều ngày lễ như Lễ Thượng nguyên (trung tuần thánh giêng) cầu cho quốc thái dân an, vào hè (trung tuần tháng tư), ra hè (trung tuần tháng Bảy), Lễ Tất niên. Trong những năm gần đây, chùa đã tổ chức nhiều sự kiện trọng đại như Đại lễ Phật Đản, lễ dâng hương tưởng niệm các vua Hùng.

Tham quan, vãn cảnh chùa Phổ Linh, du khách sẽ được hòa mình vào cảnh trời mây, non nước đẹp đến nao lòng; để rồi mọi muộn phiền của cuộc sống dường như tan biến nhường chỗ cho sự thanh thản, bình an, từ đó hướng con người đến chân - thiện - mỹ.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Tân Hồng, xã Tú Thịnh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam

freSy with passion

Chùa An Vinh (An Vinh Thiền Tự)

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa An Vinh có tên chữ là “An Vinh Thiền Tự“. Đây là ngôi chùa lớn nhất ở thành phố Tuyên Quang, tọa lạc trên một quả đồi lớn thuộc địa phận tổ 7, xã Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang, cách trung tâm tỉnh Tuyên Quang khoảng 4,5km. Chùa được dựng từ thế kỷ XVIII trong khuôn viên 1.000 m². Chùa An Vinh là một di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị về lịch sử và mỹ thuật, là nơi thu hút nhiều du khách đến thăm quan, vãn cảnh.

Lịch sử

Căn cứ vào “Tạo tác hưng công bi ký” (Bia ghi việc công đức xây dựng chùa) được tạc vào năm Vĩnh Thịnh thứ 16, triều vua Lê Dụ Tông (năm 1720) thì chùa An Vinh được khởi dựng vào đầu thế kỷ XVIII.

Trải qua bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử, chùa An Vinh đã nhiều lần được trùng tu, sửa chữa. Hiện nay chùa An Vinh là trụ sở của Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Tuyên Quang.

Sáng ngày 25 tháng Giêng năm Ất Mùi (15/03/2015) Đại lễ khởi công xây dựng ngôi Đại Hùng Bảo Điện và tổng thể chùa An Vinh đã được tổ chức long trọng, nhằm trùng tu, giữ gìn và khôi phục lại những giá trị đặc biệt của chùa.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa có kiến trúc chữ Đinh gồm tòa thiêu hương và tòa thượng điện, lối kiến trúc gọi theo tính tượng hình của tiếng Hán, gồm tòa Thiêu hương và tòa Thượng điện. Tòa tiền đường nằm phía trước chùa. Phía trước cổng chùa còn bút tích câu đối cổ, với ý nghĩa ”Giáo lý của đức Phật nhờ ngày tháng mà lưu đến không cùng, trường tồn cùng non sông gấm vóc.” Tam quan chùa với ba cổng và 4 trụ biểu, có kì lân ngự trên, trạm khắc tùng, trúc, cúc, mai…

Hiện nay, chùa An Vinh còn lưu giữ được khá nhiều di vật, cổ vật có giá trị, tiêu biểu là 12 pho tượng gỗ ở thượng điện bao gồm bộ Tam thế, bộ Bồ Tát, bộ Ngọc Hoàng và bộ Cửu Long. Chùa có hai tấm bia cổ có giá trị về mặt nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật đó là tấm bia “Tạo tác hưng công bi ký” khắc vào ngày tốt, tháng tốt thuộc triều Lê năm Vĩnh Thịnh thứ 16 (năm 1720) đời vua Lê Dụ Tông và tấm bia “Trùng tu Bảo Phúc tự bi ký” khắc vào năm Bảo Thái thứ 8 (năm 1727) nội dung ghi tên những người góp công, góp của, công đức xây dựng và tu sửa chùa.

Ngoài ra, An Vinh Thiền Tự còn lưu giữ 2 quả chuông đồng, một chiếc khánh đồng và nhiều hoành phi, câu đối có giá trị lịch sử, nghệ thuật. Quả chuông chùa An Vinh đúc năm Giáp Dần 1734 vào thời Lê, một chiếc khánh đồng đúc năm Cảnh Thịnh thứ 3 triều vua Nguyễn Quang Toản năm 1797, đều ghi tên những người đóng góp tiền của vào việc trùng tu chùa An Vinh. Chùa còn có nhà tháp thờ Đức Tiền Sư, Thích Tâm Quang, Thích Thanh Tụng.

Hằng năm, chùa An Vinh tổ chức rất nhiều lễ hội như tổ chức lễ khai bút từ ngày 1 đến ngày 4 tháng giêng (âm lịch), lễ hiên Quan tích phúc (lễ Thượng Nguyên) cầu cho quốc thái dân an vào ngày 15/01 (âm lịch), ngày lễ Phật đản – ngày Phật Thích ca ra đời được tổ chức vào ngày 15/04 (âm lịch), lễ Địa quan xá tội (còn gọi là lễ Xá tội vong nhân) nhằm ngày 15/07 (âm lịch). Bên cạnh đó An Vinh Thiền Tự còn tổ chức hai ngày giỗ hai vị sư đã từng trụ trì tại chùa vào ngày 5-1 và ngày 14-1 (âm lịch) hàng năm.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: tổ 7, xã Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam

freSy with passion

Đền Ỷ La

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Ỷ La thuộc phường Ỷ La, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, đền thờ Đệ nhất Phương Dung (công chúa Phương Dung), là chính thần được chọn là nơi khởi kiệu khi đến lễ hội rước Mẫu chung của 3 đền (đền Hạ, đền Thượng, đền Ỷ La).

Ngoài việc thờ Thánh Mẫu là chính thần, trong điện còn thờ cúng Thổ công, Sơn Thần, thờ Thành Hoàng Làng, thờ ban Triều Trần, tế các danh nhân và nạn nhân lịch sử ở địa phương.

Lịch sử

Đền Ỷ La được xây dựng vào năm (1743) và được trùng tu vào đầu thế kỷ XIX.

Theo Đại Nam nhất thống chí, Thần tích Đền Ỷ La và truyền thuyết dân gian đều cho thấy đền Mẫu Ỷ La bắt và đền Hạ (Hiệp Thuận) cùng chung sự tích và bắt nguồn từ hai nàng công chúa con gái vua Hùng.

Vào triều vua Minh Mệnh năm thứ 14 (1833), nghe tin có giặc loạn đảng tràn vào tỉnh lị Tuyên Quang, dân chúng đã vác tượng Mẫu Phương Dung chạy vào thôn Gốc Đa, xã Ỷ La. Họ vừa kịp giấu pho tượng vào rừng cây thì quân giặc tới, nhưng chúng không phát hiện ra, sáng hôm sau, thay vào chỗ bức tượng là một đống mối đùn lớn, dân làng cho là điềm báo ứng. Quan phiên đài Nguyễn Thứ và quan huyện Doãn Nguyễn Huy Côn cùng với nhân dân lập một ngôi đền mới thờ Thánh Mẫu ngay trên mảnh đất đó để phụng thờ.

Năm 1817 đền Ỷ La được khởi công dựng lại trên nền cũ nhưng có quy mô lớn hơn, thêm nhiều kiến trúc khác.

Năm 2015, đền Mẫu Ỷ La đã được Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Đền Ỷ La được xây dựng hướng Đông Nam, với kiến trúc chữ Công (工), trên thế đất bằng phẳng, rộng rãi, thoáng mát, có nhiều cây cổ thụ xung quanh. Kiến trúc đền chính gồm toà Tiền Đường và Hậu Cung.

Phía trước đền có xây dựng hai Lầu là Lầu Cô, Lầu Cậu, được thiết kế 2 tầng 8 mái, bên trong có tượng đặt trong khám thờ, đầu đao mái uốn cong và chính giữa bờ nóc mái trang trí rồng chầu.

Đền được xây trên nền cao, từ dưới nền qua 5 bậc thềm lên xuống, hai bên trước đầu đốc có hai cột trụ theo kiến trúc lồng đèn, trên đỉnh trang trí hoạ tiết rồng, chim phượng. Tầng 1 gồm 2 mái, tầng 2 gồm 4 mái đều lợp ngói mũi hài, tầng 2 ở các bức tường xung quanh được chạm khắc dày các hoạ tiết hình rồng uốn lượn, chim phượng, sơn thếp vàng, ở giữa có bức hoành phi khắc chữ Hán “下天條母” tức “mẫu nghi thiên hạ” nghĩa: mẫu mực người mẹ trong thiên hạ.

Bên trong đền các gian được đặt các ban thờ, mỗi gian đều được trang trí từ cửa võng, đồ thờ cúng, các hoành phi, câu đối đều được sơn thếp và trang trí các hoạ tiết. Ở gian giữa đền là nơi thờ chính, phía trên có treo bức hoành phi chữ Hán: “典中保翊” dịch “Dực Bảo Trung Hưng”.

Hiện nay đền Mẫu Ỷ La còn lưu giữ được 6 bản sắc phong của 4 vị vua triều Nguyễn phong cho đền Mẫu Ỷ La như: Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, trong đó:

  • Sắc phong của vua Đồng Khánh năm (1887) ban mĩ tự là “Dực Bảo Trung Hưng”
  • Sắc phong của vua Thành Thái năm (1890) là “Tề Thục Trung Đẳng Thần”
  • Sắc phong vua Duy Tân năm (1909) là “Hiệp Thuận Trinh Ý Minh Khiết Tĩnh Quyên Nhàn Uyển Trai Thục Dực Bảo Trung Hưng Phương Anh Phu nhân trung đẳng Thần”
  • Sắc phong của vua Khải Định năm (1923) là “Linh Thuý Trung Đẳng Thần”

Nội dung các sắc phong đều đề cao công đức của Mẫu Thần đã giúp nước, trợ dân sống an lành hạnh phúc, qua các sắc phong ta thấy các vị vua triều Nguyễn đều đồng lòng với dân, tôn thờ Thánh Mẫu, thể hiện nét văn hoá, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.

Ngoài sắc phong nêu trên, đền Ỷ La còn lưu các đề từ và câu đối đề cao công sức Mẫu như: Dực Bảo Trung Hưng, nghĩa là: Bảo toàn vận nước - Mẫu nghi thiên hạ, nghĩa là: Mẫu uy nghi khắp thế gian.

Hay câu đối:

Địa La quảng khoát đức thịnh phong thanh dẫn nhập viễn hồi nguyên Sâm Sơn Lô thuỷ chi gian chúc truyền càn khôn chung vượng khí

Nghĩa là:

Đất rộng, đức cao gió lành đưa từ xa về chốn cũ Núi Dùm, sông Lô thắp sáng đất trời đúc lên khí đẹp

Hàng năm, từ ngày 11- 16 tháng 2, đền Ỷ La cùng với đền Hạ và đền Thượng tổ chức lễ rước Kiệu Mẫu bắt đầu từ Đền Mẫu Ỷ La ra Đền Hạ, rồi tiếp đến lễ rước Kiệu Mẫu từ Đền Thượng qua sông về Đền Hạ để cùng hợp tế. Lễ hội diễn ra cùng đầy đủ nhân dân, khách thập phương tham dự.

Những thanh niên đẹp nhất xứ Tuyên rước Kiệu Mẫu, kết hợp cùng đoàn múa lân, dàn nhạc với lời ca. Dọc trên đường đi từ đền Mẫu Ỷ La đến đền Hạ nơi hợp tế, nhân dân từ già đến trẻ ngồi thành một hàng dài cho kiệu Mầu đi qua, theo dân gian, người ngồi dưới Kiệu Mẫu sẽ được Thánh Mẫu bảo vệ.

Ngoài ra đền Ỷ La còn diễn ra các ngày lễ hàng năm:

  • Ngày mùng 7 tháng Giêng: Lễ Thượng Nguyên
  • Ngày 7 tháng 2: Lễ Vào Hè
  • Ngày 7 tháng 7: Lễ Ra Hè
  • Ngày 11 tháng 7: Lễ Tiệc Mẫu
  • Ngày 16 tháng 7: Lễ Hoàn Cung
  • Ngày 20 tháng 8: Tiệc Nhà Trần
  • Ngày 7 tháng Chạp: Lễ Tất Niên

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: phường Ỷ La, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam

freSy with passion

Tổng hợp từ Internet

Bài viết khác

The ÂN - Working with love
Tài trợ & Đối tác
KHỞI NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: HÀNH TRÌNH TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG
The ÂN - Working with love
The ÂN - Working with love
Tình yêu thương

đến từ khách hàng của freSy!

Nhận tin mới nhất