Việt Nam

[Bản Đồ Tâm Linh] Tuyên Quang Mới: Hành Hương Qua Các Đền Chùa Từ Sông Lô Đến Cao Nguyên Đá (Phần II: Hà Giang)

Blog


Theo dự thảo Đề án hợp nhất hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, sau sáp nhập sẽ lấy tên gọi là Tuyên Quang, trung tâm hành chính đặt tại Tuyên Quang. Trước thềm sáp nhập, hãy cùng freSy "hành hương" đến vùng đất này - nơi hội tụ trọn vẹn những giá trị tâm linh đặc sắc của cả hai vùng Đông Bắc Việt Nam, nơi giao thoa giữa thiên nhiên hùng vĩ và linh hồn văn hóa Việt. Sau đây là loạt chùa nổi tiếng ở Hà Giang (cũ).

Chùa Sùng Khánh

freSy with passion

Giới thiệu

Vùng đất Hà Giang không chỉ nổi tiếng với những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cùng nhiều điểm du lịch hấp dẫn, mà còn được biết đến là nơi có những di tích lịch sử giá trị. Một trong những di tích lịch sử đáng chú ý đó chính là Chùa Sùng Khánh, đây là nơi lưu giữ bảo vật quốc gia với những giá tri lịch sử, văn hóa ý nghĩa.

Chùa Sùng Khánh còn được gọi là Chùa Làng Nùng hay Chùa Báo Thiên, chùa tọa lạc trên một đỉnh đồi nhỏ bên dòng sông Lô, thuộc thôn Làng Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Chùa khá nhỏ chỉ vỏn vẹn 26m² nhưng lại có vị thế rất đẹp với lưng tựa vào núi, mặt quay về hướng Đông.

Lịch sử

Chùa Sùng Khánh được xây dựng vào năm 1356, bởi chú Phụ Đạo Nguyễn Ấn. Đây là ngôi chùa gắn liền với hệ tư tưởng Phật giáo thời Lý – Trần.

Năm 1367, tướng Tạ Thúc Ngao đi kinh lý ngang qua đây đã được nhờ soạn bài minh để khắc lên bia đá, bài minh này có nội dung viết về một Phụ đạo họ Nguyễn – quản lĩnh vùng đất này chính là người chủ xướng lập chùa Sùng Khánh – đó là Nguyễn Ấn.

Vào tháng 8 năm 1707, quan Phó Tuần phủ đồn Hà Giang là Nguyễn Văn Trân đã vận động quyên góp người dân để đúc một quả chuông lớn. Bài minh trên quả chuông mang ý nghĩa và giá trị nhân văn, nhằm nhắc nhở đồng bào các dân tộc đoàn kết, chăm lo sản xuất, giữ vững bờ cõi,…

Năm 1989, chùa Sùng Khánh được xây dựng lại trên nền cũ.

Năm 1993, chùa Sùng Khánh được xếp hạng di tích lịch sử.

Năm 1999, chùa được công nhận di tích lịch sử cấp Quốc gia.

Năm 2008, chùa Sùng Khánh đã nhận được 6 bức tượng phật do phật tử ở Hà Nội cung hiến. Bảo tàng tỉnh Hà Giang cùng phòng Văn hóa Thông tin huyện Vị Xuyên. Kết hợp với UBND xã Đạo Đức đã tổ chức lễ rước và an vị các bức thượng phật vào di tích lịch sử chùa Sùng Khánh.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Sùng Khánh là công trình thờ phật quý hiếm từ đời Lý – Trần với lối kiến trúc khá đơn giản. Trước đây, ngôi chùa được làm từ gỗ và lợp mái lá. Nhưng qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, ngôi chùa nhiều lần bị đổ nát.

Sau này, chùa Sùng Khánh được xây dựng lại trên nền cũ theo hình chữ “Nhất”, chỉ có một gian chánh điện với diện tích 26m2, cao 4,3m. Chùa có một cửa chính và hai cửa phụ hai bên, vách gạch, lợp ngói và có tường bao. Cửa chính đi vào là nơi thờ phật được xây dựng bệ để đặt một số đồ thờ.

Trên bệ thờ có treo một bức tranh hình Phật Bà Quan Âm thay cho tượng Phật. Bên trái bệ thờ là tấm bia đá có giá trị to lớn, và cũng là di sản quý giá mà chùa hiện còn lưu giữ, đây cũng là nơi ghi nhớ công lao của những ai có công xây dựng chùa ngày trước.

Chùa Sùng Khánh nhiều lần bị đổ nát, tượng Phật và đồ thờ tự cũng bị mai một theo. Tuy nhiên chỉ còn 02 tấm bia đá và 01 quả chuông đồng còn tồn tại cho đến ngày nay.

Quả chuông đồng cao gần 01 mét, rộng khoảng 0.67m, được đúc vào năm 1705 thời Hậu Lê. Những hình ảnh được khắc trên chuông đồng mang đậm dấu ấn của kỹ thuật điêu khắc và đúc đồng ngày trước.

Tấm bia đá được dựng vào triều vua Trần Dụ Tông vào năm 1367.

Bia được tạc bằng đá xanh nguyên khối, chiều cao 90cm, chiều rộng 47cm, dày 11cm. Đặt trên lưng rùa đá, rùa được đặt trên bệ đá màu xám. Toàn thân rùa được chạm trổ tinh tế, mềm mại, hình khối cân đối và vững chắc. Lưng rùa nhẵn và tròn trịa, giữa lưng có đục một mộng ghép hình chữ nhật để ghép chân bia.

Trán bia được trang trí hình cánh cung rộng 38cm, chia làm 3 ô hình chữ nhật tương xứng. Ô chính giữa khắc hình Phật A Di Đà toạ trên đài sen trong tư thế bán kết già, bên cạnh Phật A Di Đà có 2 hầu cận tay chắp trước ngực; hai ô bên khắc hình hai con rồng giống nhau, tựa như đối xứng, trong tư thế đang bay, đầu nghển cao hướng tới toà sen. Hình tượng con rồng cũng phản ánh ý thức sùng bái tổ tiên của người Việt (truyền thống con rồng, cháu tiên).

Toàn bộ bia toát lên dáng vẻ vững chắc về hình khối, văn bia chạm khắc sắc sảo nét chữ chân phương, đường nét trang trí tinh xảo, mềm mại và mang những đặc trưng chung của nghệ thuật điêu khắc, trang trí thời Trần.

Nội dung văn bia gồm 18 dòng với 436 chữ Hán (Trong đó có một số chữ Nôm). Nét chữ khắc sâu, còn rất rõ và không có dấu hiệu nào chứng tỏ bia khắc lại ở thời gian sau.

Bia đá chùa Sùng Khánh là một tài liệu bia ký nguyên vẹn, trang trí hình Phật, rồng, hoa dây,…chưa từng thấy trên tấm bia thời Trần nào hiện biết. Tấm bia còn giúp thêm tài liệu cho việc tìm hiểu địa danh, lịch sử, chữ viết thời Trần, đặc biệt là sự xuất hiện của chữ Nôm khắc trong văn bia.

Tấm bia còn là chứng cớ nói lên sự ảnh hưởng của Phật giáo thời Trần thời bấy giờ.

Hằng năm vào mỗi dịp xuân về, người dân các vùng xung quanh lại cùng nhau về chùa Sùng Khánh để tổ chức lễ hội vui xuân cùng nhiều hoạt động có ý nghĩa. Đặc biệt, vào ngày 15 tháng Giêng Âm lịch, chùa tổ chức Lễ hội Lồng Tồng của người Tày. Đây là dịp để người dân ăn mừng mùa gieo trồng mới, tạ ơn đất trời, thần Nông, thần Phục Hy, thành hoàng làng bản,… và cầu cho một năm mới đến mưa thuận gió hòa, cuộc sống yên vui, hạnh phúc.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Làng Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (cũ), Việt Nam

freSy with passion

Chùa Nậm Dầu

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Nậm Dầu được phát hiện từ rất lâu, song do sự nhận thức của người dân nên chùa đã bị mục nát và phá hủy, không có người trùng tu, tân tạo, bảo vệ. Khu vực quanh chùa bị nhân dân phát phá làm nương rẫy. Đến năm 1979 một số hộ dân sơ tán từ Thanh Thủy về, đã lấy cây que gác lều đá, lấy ngói che lều và bát hương thờ. Đến năm 1994 một số cụ già bên Thị trấn Vị Xuyên sang tu sửa lại thành một căn thờ 3 gian nhà gỗ. Một thời gian sau nhà gỗ bị mối ăn, các cụ già ở Thị trấn Vị Xuyên, Ngọc Linh, Linh Hồ và một số xã lân cận đã công đức xây dựng lên ngôi chùa như hiện nay.

Lịch sử

Trước kia do không rõ nguồn gốc nên chùa được goi là đền Nậm Dầu (đền Đôi cô Nậm Dầu). Đến năm 2007 sở văn hóa Hà Giang kết hợp một số ngành chức năng tiến hành khảo sát, qua khảo sát và phát hiện những vật liệu xây dựng còn lại trên chùa đã khẳng đinh những vật liệu, kiến trúc chùa thời đó là kiến trúc đời Trần (cuối thế kỷ XIII, XIV).

Qua khảo sát đánh giá với những di vật còn lại Sở văn hóa hà Giang đã lập hồ sơ đề nghị Bộ văn hóa công nhận. Đến tháng 9/2009 chùa đã được Bộ văn hóa công nhận là di tích cấp quốc gia (Di tích khảo cổ chùa Nậm Dầu).

Từ đó đến nay, chùa được mang tên chùa Nậm Dầu. Chùa đã được chính quyền, nhân dân địa phương và du khách thập phương chung tay bảo vệ, dần khôi phục lại các hoạt động, các di tích theo hoạt động của chùa.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Ngôi chùa nằm trên đỉnh một quả đồi, nằm giữa sự bao quanh của sắc xanh cây lá. Phía trướng mặt ngôi chùa (Phía Đông) nhìn ra Sông Lô, đằng sau (Phía Tây) có núi Voi bao bọc, phía bắc có núi Bút che chở, Phía nam có dòng suối Nậm Dầu chảy bao quanh, nhìn từ trên cao suống dòng suối uốn quanh hiền hòa như một dải ngân hà bao bọc và che chở cho ngôi chùa.

Nằm trong hệ thống chùa cổ của huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, với những giá trị độc đáo, Chùa Nậm Dầu không chỉ tạo nên một vùng di tích đặc sắc, gợi mở cho các thế hệ nhiều điều về lịch sử của một vùng đất biên cương mà còn thu hút đông đảo du khách thập phương đến hành hương, tham quan danh thắng trở thành điểm đến du lịch tâm linh nổi tiếng của Hà Giang.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Nậm Thanh, xã Ngọc Linh, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (cũ), Việt Nam

freSy with passion

Chùa Quan Âm

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Quan âm được đặt nằm trên trục đường Phùng Hưng, phường Trần Phú, Thành phố Hà Giang tựa lưng vào một quả đồi với bề thế thoáng đãng, mát mẻ quanh năm. Đây được mệnh danh là ngôi chùa to và đẹp nhất tại thành phố Hà Giang.

Lịch sử

Chùa Quan Âm Hà Giang có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, được xây dựng từ thế kỷ XIX. Qua nhiều thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa vẫn giữ được vẻ đẹp và sức hấp dẫn của mình, trở thành một biểu tượng văn hóa tiêu biểu của Hà Giang.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Quan Âm được xây dựng với kiến trúc bề thế và to đẹp. Cổng chùa được làm bằng gỗ lớn như cách biệt với thế giới ồn ào, náo nhiệt thì bên trong chùa là không gian thanh tịnh, yên ắng. Cầu thang của chùa được lát bằng đá Granite lệch sang hướng bên phải của cổng gỗ với thiết kế đồ sộ, uy nghiêm.

Không nằm trên một mặt phẳng, chùa Quan Âm Hà Giang được chia thành 3 tầng lầu và một tầng trệt, xây cao dần theo thế đất. Với vẻ đẹp độc đáo, uy nghiêm và đồ sộ của ngôi chùa đã một phần khẳng định sự phát triển của thành phố Hà Giang nói riêng và Hà Giang nói chung.

Bước vào bên trong chùa, du khách sẽ được tận hưởng không gian tĩnh lặng, yên bình. Các tượng Phật, Bồ Tát được sắp xếp hài hòa, tạo nên một không gian linh thiêng, tráng lệ. Tại các góc chùa, người tham quan có thể tìm thấy những linh vật, đồ lưu niệm mang đậm phong vị Phật giáo truyền thống.

Chùa Quan Âm sở hữu nhiều tượng Phật, Bồ Tát được tạc công phu, tinh xảo. Các tượng này thể hiện sự linh thiêng, uy nghi, thu hút sự chú ý của du khách khi đến tham quan.

Ngoài các tượng Phật, chùa Quan Âm còn sở hữu nhiều công trình kiến trúc độc đáo như tháp chuông, nhà kinh, cổng tam quan,… Mỗi công trình đều thể hiện sự sáng tạo, tỉ mỉ của các kiến trúc sư trong quá khứ.

Bên cạnh các công trình kiến trúc, chùa Quan Âm còn lưu giữ nhiều hiện vật, di vật quý giá như các tượng Phật cổ, chuông đồng, bia ký… Các hiện vật này không chỉ có giá trị lịch sử, văn hóa mà còn thu hút sự quan tâm của du khách.

Hàng năm, chùa Quan Âm đều tổ chức các hoạt động văn hóa, tâm linh như lễ Phật đản, lễ Vu Lan, lễ Quán Thế Âm Bồ Tát… thu hút đông đảo người dân và du khách tham gia. Đây là dịp để mọi người cùng nhau giao lưu, tìm về với những giá trị tinh thần của Phật giáo.

Ngoài các nghi lễ chính, chùa Quan Âm còn tổ chức nhiều hoạt động tâm linh khác như lễ dâng hương, thắp nến, lễ cầu siêu… Các hoạt động này thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách tham gia, tạo nên không khí trang nghiêm, linh thiêng.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: số 58, tổ 17, đường Phùng Hưng, phường Trần Phú, Thành phố Hà Giang (cũ), Việt Nam

freSy with passion

Chùa Thiên Ân

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa Thiên Ân được xây dựng trên núi với vị trí cực cao và có view đẹp từ trên nhìn xuống. Đứng trên chùa, du khách có thể nhìn thấy toàn cảnh vùng nông thôn và dãy núi xung quanh. Nơi đây được ví như bức tranh sơn thủy hữu tình được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho mảnh đất này. Hơn nữa. đây cũng là địa bàn sinh sống của các dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao,.. Bởi vậy, nơi đây mang đậm nét văn hóa truyền thống lâu đời của người dân tộc thiểu số.

Lịch sử

Chùa Thiên Ân Hà Giang được xây dựng vào năm 1923 với kiến trúc đặc biệt, kết hợp giữa kiến trúc Việt Nam Và Trung Quốc. Đến năm 2015, ngôi chùa được chính thức khởi công để triển khai dự án đầu tư xây dựng và tôn tạo những hạng mục công trình như: Tam Bảo, Tam Quan, nhà thờ Tổ,...với mức đầu tư khoảng 15 tỷ đồng từ nguồn xã hội hóa.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Với kiến trúc độc đáo kiểu Á Đông, điểm nhấn thu hút khách du lịch ở ngôi chùa này chính là tháp chuông và tháp cổng nơi đây. Ngoài ra, chùa còn có một hồ nước và một khu vườn cây xanh xung quanh, đem đến cho du khách cảm giác yên bình khi ghé thăm nơi đây.

Hằng năm, chùa Thiên Ân là nơi tổ chức Đại lễ Phật đản do Ban Trị sự GHPG tỉnh Hà Giang chủ trì, trong đó buổi Đại lễ Phật đản 2024 đã thu hút đông đảo tăng ni, Phật tử và lãnh đạo địa phương đến dự. Chùa cũng thường xuyên phối hợp với các tổ chức từ thiện để thực hiện các chương trình trao quà, hỗ trợ dân nghèo trong vùng.

Ngôi chùa này vừa là địa điểm tâm linh, thể hiện tấm lòng hướng Phật của Phật tử các nơi, vừa là một địa điểm du lịch Hà Giang cực kỳ đáng trải nghiệm.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: tổ 14, xã Đồng Bục, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang (cũ), Vietnam

freSy with passion

Đền Mẫu Hà Giang (Cấm Sơn Linh Từ)

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Mẫu Hà Giang còn có tên khác là Cấm Sơn Linh Từ, là một ngôi đền mang đậm nét đạo Mẫu truyền thống của Việt Nam; nét văn hóa đẹp được phát huy từ bao đời nay.

Di tích lịch sử văn hóa Đền Mẫu được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 2007, nằm trên địa bàn tổ 6, phường Nguyễn Trãi, Thành phố Hà Giang.

Lịch sử

Theo như các tư liệu còn sót lại đến ngày nay có ghi, đền được xây dựng vào những năm cuối cùng của thế kỷ 19 để thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Tuy nhiên, theo như truyền thuyết của người dân vùng này thì đền được xây dựng dựa trên sự kiện lịch sử giữa quân cờ Vàng và quân cờ Trắng. Vào những năm 1870 – 1875, nơi đây diễn ra cuộc chiến giữa “quân cờ vàng” – bọn cướp bóc, trấn lột do Hoàng Sùng Anh cầm đầu và “quân cờ trắng” của nhân dân địa phương. Vị trí xây dựng đền chính là nơi mà quân cờ vàng khi xưa thua trận đã nhảy xuống tử vẫn. Sau này, vì tiếc thương cho các vong linh tử sỹ, mà người dân nơi đây đã lập đền thờ để tưởng nhớ và lấy tên đền gọi là Cấm Linh Sơn Tử (tức là khu vực đền thiêng núi cấm).

Tính đến ngày nay thì đền đã có hơn 100 năm tuổi, qua nhiều thời gian trùng tu, ngôi đền này đổi tên thành đền Mẫu thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh cùng các vong hồn tứ cố vô thân của các chiến sĩ xấu số. Ngày nay đền Mẫu đã trở thành một nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh quan trọng trong tín ngưỡng của người dân địa phương nơi đây. Đây cũng là nơi lưu giữ nhiều hiện vật nghệ thuật, kiến trúc quý báu như chuông đồng, tượng thờ, câu đối hay các bức hoành phi,… Ngày nay vào các ngày như 13/3 âm lịch hay 27/7 thường tổ chức lễ hội hay lễ dâng hương, các bạn có thể cân nhắc ghé thăm.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Đền Mẫu Cấm Sơn có tên được khắc tại quả chuông của Đền đúc năm 1907 là Cấm Sơn Linh từ (nghĩa là Đền thiêng núi Cấm). Với địa thế sơn thủy hữu tình, tựa lưng núi cấm, quay về phía đông, hướng mặt ra sông Lô, khuôn viên Đền rộng hơn 3.000 m2, là nơi ghi dấu nhiều dấu ấn quan trọng về cuộc đấu tranh của đồng bào các dân tộc Hà Giang chống giặc Cờ Vàng, bảo vệ vùng đất biên cương của tổ quốc Việt Nam cuối thế kỷ 19.

Đền Mẫu hiện lưu giữ được một số hiện vật cổ và nguồn tư liệu chữ Hán có giá trị phản ánh lịch sử di tích như: 03 bản sao sắc phong vua Thành Thái ban cho phường Quy Lưu, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nội (nay thuộc huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam) vào năm 1889, trong đó 01 đạo sắc cho Trần Thị Anh phu nhân, 01 đạo sắc cho Quế Anh phu nhân và 01 đạo sắc cho công chúa Liễu Hạnh, Thích Đế, Tiên Đình, Tiên Thiên. Các đạo sắc phong trên được Hội thiện nam tín nữ Đạo Quan binh thứ ba Hà Giang sao lại và rước chân nhang đưa vào thờ tại đền Mẫu Cấm Sơn. Đền còn lưu giữ được quả chuông đồng triều vua Thành Thái (1907). Căn cứ vào nguồn tu liệu chữ Hán (sắc phong, minh chuông) cho thấy Đền Mẫu Cấm Sơn được xây dựng vào thời Nguyễn trong khoảng thời gian từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.

Căn cứ vào cứ liệu lịch sử và nguồn tư liệu dân gian thì từ trước khi lập đền Mẫu, người dân địa phương đã dựng lên một ngôi miếu để thờ những vong hồn tử trận trong cuộc chiến đấu chống quân Cờ Vàng từ bên kia biên giới tràn sang cướp bóc và quấy nhiễu cuộc sống của nhân dân các dân tộc Hà Giang vùng biên giới. Thực tế lịch sử cho biết: Năm 1867, tàn quân của phong trào Thái bình Thiên quốc bị tướng nhà Thanh là Phùng Tử Tài truy đuổi xuống sát biên giới. Ngô Côn cầm đầu các nhóm tàn quân này tràn sang Bắc Kỳ, chia làm hai toán là Cờ Đen và Cờ Vàng. Quân Cờ Đen lưu trú tại Lào Cai trên sông Hồng. Quân Cờ Vàng lưu trú tại Hà Giang, mạn sông Lô chảy vào Bắc Kỳ. Sau khi Ngô Côn chết, quân Cờ Đen chọn Lưu Vĩnh Phúc làm chủ tướng. Hai toán quân này mâu thuẫn và tìm cách loại trừ lẫn nhau để độc chiếm việc kiểm soát tàu bè, thu thuế trên sông Hồng và ở vùng núi cao Bắc Kỳ. Vào những năm 1870 – 1875 quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh nhiều lần kéo đến cướp bóc ở địa hạt Hà Giang, bị quan quân nhà Nguyễn và đồng bào các dân tộc Hà Giang đánh trả quyết liệt.

Năm 1875, đội quân Cờ vàng của Hoàng Sùng Anh thất thế, co cụm lại và rút lên núi Cấm để cố thủ. Đây là ngọn núi đá vôi đơn lẻ, đường lên núi hiểm trở. Trên đỉnh núi có một hang sâu, dựng đứng như giếng trời. Quân Cờ Vàng sau nhiều ngày bị quân nhà Nguyễn và dân binh địa phương bao vây, lương thực cạn kiệt. Biết không thể thoát được, quân Cờ vàng đã nhảy xuống hang sâu tự vẫn. Sau khi quân Cờ vàng thất bại, với tấm lòng bao dung, nhân dân Hà Giang đã cho lập miếu thờ dưới chân núi Cấm để cúng cho những vong hồn chết trận. Hiện nay, ở xung quanh vùng núi Cấm nhân dân vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện kể về sự thất bại của quân Cờ Vàng và tinh thần chiến đấu của nhân dân Hà Giang trong chiến trận.

Các nguồn sử liệu đáng tin cậy cho thấy di tích đền Mẫu, phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang không chỉ có giá trị về tư liệu Hán Nôm (sắc phong, minh chuông…) mà còn là địa điểm ghi dấu sự chiến đấu ngoan cương của người dân địa phương phối hợp chặt chẽ với quan quân triều đình xóa bỏ hoàn toàn quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh – nỗi kinh hoàng của nhân dân Hà Giang lúc bấy giờ - bảo vệ cuộc sống bình yên của người dân, bảo vệ đất đai biên cương của Tổ quốc.

Trải qua gần 2 thế kỷ tồn tại, đền Mẫu Cấm Sơn đã gắn bó mật thiết với đời sống tâm linh của người dân địa phương. Qua nhiều lần trung tu vào các năm 1960, 1973, 1989, 2004 ngôi đền ngày nay có kiến trúc khang trang, rộng rãi, là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân.

Năm 2022 -2024 Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch đã giao đơn vị chuyên môn của ngành tiếp tục sưu tầm tư liệu xây dựng hồ sơ xin ý kiến của Viện Sử học – thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và Viện Sử học đã có Văn bản phúc đáp số 230/VSH-LSĐP ngày 20/12/2022 về việc đánh giá giá trị, ý nghĩa các sự kiện, nhân vật lịch sử liên quan đến di tích Đền Mẫu, thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang. Sau khi có văn bản trả lời của Viện Sử học, ngành tiếp tục chỉnh sửa bổ sung hồ sơ trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích cấp quốc gia.

Ngày 20/11/2024, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có Quyết định số 3538/QĐ-BVHTTDL xếp hạng di tích quốc gia Di tích lịch sử Đền Mẫu Cấm Sơn và hang núi Cấm, phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: tổ 6, phường Nguyễn Trãi, thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang (cũ), Vietnam

freSy with passion

Đền Quan Hoàng

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Quan Hoàng cũng là điểm đến tâm linh Hà Giang mà bạn nên dừng chân khi đến miền đất cao nguyên đá. Ngôi đền này nằm ở thôn Đồng Lực, thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn, xây dựng vào cuối thế kỷ 18. Đền Quan Hoàng được người Lô Lô lập nên để thờ ông Công Hoàng - một vị anh hùng người Lô Lô.

Lịch sử

Đền Quan Hoàng hay còn được biết đến với tên gọi khác là đền Công Hoàng thuộc thôn Đồng Lực, thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn. Đền có diện tích là 87,90m2. được xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII do người Lô Lô lập nên để thờ ông Công Hoàng - một vị anh hùng người dân tộc Lô Lô. Ông được thờ phụng như một vị phúc thần có công xây dựng và bảo vệ xóm làng đem lại cuộc sống ấm no, thanh bình cho cả một vùng rộng lớn và là người đứng đầu cai quản cộng đồng người dân tộc Lô Lô ở Đồng văn.

Trước đây ở vùng thị trấn Đồng Văn ngày nay có nhiều người dân tộc Lô Lô sinh sống, đứng đầu cai quản người Lô Lô vùng này tên là Công Hoàng người Lô Lô Hoa còn gọi ông là Vua của người Lô Lô. Ông có uy tín lớn đối với người bản địa và có công khai khẩn đất đai và xây dựng làng xã khu dân cư ở khu vực thị trấn Đồng Văn ngày nay. Vào thời kỳ loạn lạc quân cờ đen sang sâm chiếm khu vực Đồng Văn, chúng giết người, cướp của, đốt phá nhà của dân. Các triều đại nhà Nguyễn đã cử ông cầm quân đứng lên diệt giặc cờ đen bảo vệ xóm làng. Để tưởng nhớ công lao, sau khi ông qua đời bà con người Lô Lô đã lập đền thờ ông gọi là đền ông Công Hoàng. Năm 1960 một người khách đến thăm đền đã vẽ lên 2 bức hình một nam, một nữ bằng mực đen tô màu hồng tươi tượng trưng cho ông bà Công Hoàng.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Các di vật cổ của ngôi đền gồm: các bệ thờ theo kiến trúc cổ, tượng thờ, chuông, khánh, … nhưng sau chiến tranh biên giới 1979 đến nay các hiện vật này đều không còn.

Với quy mô và diện tích không lớn nhưng mang dấu ấn và bề dày lịch sử cả một vùng rộng lớn, đền được công nhận là Di tích cấp tỉnh vào năm 2013.

Hàng năm vào ngày Ngọ tháng 2 âm lịch bà con lại đến đền Công Hoàng lễ rất đông vì ngày này theo các cụ cao niên là ngày sinh của Ông và ngày Mùi là ngày sinh của Bà Công Hoàng. Đền là điểm tâm linh rất linh thiêng, các gia đình muốn xin con thường đến đền cầu tự vào ngày Ngọ tháng 2 âm lịch và các ngày Mùi, sau này đều được như ý, từ đó đền Công Hoàng là điểm tâm linh thu hút rất đông bà con trong khu vực và du khách thập phương đến để lễ cầu con cái, cầu tài lộc.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thôn Đồng Lực, đường Lý Thường Kiệt, thị trấn Đồng Văn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang (cũ), Vietnam

freSy with passion

Đền Đôi Cô Cầu Má

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Đôi Cô Cầu Má Hà Giang là công trình kiến trúc tâm linh ấn tượng thuộc hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu lâu đời ở nước ta.

Đền Đôi Cô Cầu Má Hà Giang là một điểm đến tâm linh nằm ở vị trí Km15 Quốc lộ 2, thuộc xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Đây là một trong những ngôi đền thờ Mẫu linh thiêng ở nước ta, có cấu trúc như các đền Mẫu trong hệ thống đạo Mẫu ở Việt Nam, được xây dựng từ những năm 1929.

Với người theo tín ngưỡng thờ Mẫu, ngôi đền này có ý nghĩa quan trọng về mặt tâm linh. Bởi nơi đây được xây dựng để thờ Thượng Ngàn và cô bơ Thoải Cung. Từ xưa đến nay, đền Đôi Cô Cầu Má đã trở thành nơi thiêng liêng để những người tin tưởng đến cầu may mắn, bình an. Quan niệm của những người theo tín ngưỡng thờ mẫu, việc viếng đền vào ngày 1 và 15 hàng tháng là để cầu phúc, thánh hoặc mẫu mà mình tôn thờ.

Lịch sử

Đền Đôi Cô Cầu Má Hà Giang được xây dựng vào những năm 1921 khi thực dân Pháp có ý định xây tuyến Quốc lộ 2 ở khu vực này. Thuở ấy dòng sông Má chảy xiết làm gián đoạn các công trình xây dựng. Vì thế ông chủ người Pháp đã tìm đến pháp sư trong vùng để làm các nghi lễ thờ cúng thổ thần. Pháp sư khuyên rằng cần có lễ vật là 2 cô gái đồng trinh để thổ thần cho phép xây cầu.

Lúc đó, nhà thầu người Pháp tìm kiếm 2 cô gái đồng trinh tự nguyện gieo mình xuống sông Má để giúp việc xây cầu được thuận lợi. Và chính vì sự tích này mà đền Đôi Cô Cầu Má đã được xây nên nhằm tôn thờ hai cô gái đồng trinh có tên Dương và Hà. Ngày nay, ngôi đền này thu hút nhiều du khách và người dân bản địa đến cầu may mắn, sức khỏe và hạnh phúc. Các dịp Tết hay hội, đền thường rất đông đúc, náo nhiệt.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Viếng thăm đền Đôi Cô Cầu Má Hà Giang, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc chia thành 3 gian tương ứng với 3 cung. Theo đó, cung chính thờ Tam tòa Thánh Mẫu và Đôi Cô. Cụ thể, bộ tượng Tam Tòa Thánh Mẫu đặt trong khám thờ ở giữa ở vị trí cao nhất – nơi thờ Mẫu Thượng Thiên. Dưới khám thờ Tam Tòa Thánh Mẫu là bộ tượng Đôi Cô. Còn vị trí khám trái và phải thờ Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn. Bên cạnh đó, trong ngôi đền linh thiêng ở Hà Giang này còn thờ các vị thần như Bà Chúa Sơn Trang và Đức Thánh Trần. Bà Chúa Sơn Trang được tôn thờ vì tài đức và sắc đẹp, có công lớn trong các cuộc kháng chiến. Còn Đức Thánh Trần - Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chính là vị anh hùng có công đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến Nguyên – Mông lẫy lừng của dân tộc. Viếng đền Đôi Cô Cầu Má Hà Giang, du khách còn có cơ hội chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc đầy sắc sảo và tinh tế, thể hiện qua các hoa văn, họa tiết tinh xảo đầy chất nghệ thuật. Các cột và cửa đền đều được sơn nâu, làm từ vật liệu gỗ bền bỉ, toát lên nét đẹp uy nghiêm và đầy huyền bí. Ngày nay khi đến thăm ngôi đền này, du khách vừa được trải nghiệm một không gian văn hóa tâm linh, vừa được tìm hiểu về văn hóa, tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Đặc biệt khi đến đây, bạn còn có thể cầu may mắn, bình an và phước lành cho bản thân và gia đình.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Km15 Quốc lộ 2, xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (cũ), Việt Nam

freSy with passion

Đền Thác Con

freSy with passion

Giới thiệu

Đền Thác Con ở Hà Giang là ngôi đền rất đẹp của thành phố Hà Giang, ngôi đền này còn có tên gọi khác là Đền Chúa Thác hay Đền Thác Gia, tức là bà mẹ nhân từ của con dân vùng đất Hà Giang.

Đền Thác con nằm trong khu vực di chỉ khảo cổ học thời đồ đá tại Đồi thông, thuộc tổ 8, phường Trần Phú, thành phố Hà Giang. Xưa trước đền, trên dòng sông Lô có thác ghềnh, nước chảy ngày đêm trắng xóa, tạo nên khung cảnh “ Sơn thủy hữu tình”, các vị tiên nữ đêm đêm thường xuống tắm dưới chân thác nên đền còn có tên gọi là đền Chúa Thác.

Lịch sử

Theo thuyết phong thủy, đền tọa lạc trên một thế đất vuông vức, phía trước là dòng sông Lô uốn lượn tạo hình bán nguyệt và núi cao án ngữ như chiếc bình phong đón nhận điềm lành và tránh khí độc, trừ ma quỷ. Phía sau đền là núi đá tai mèo có hình giống như đầu con “Hổ phù” làm hậu trẫm; bên tả có Thanh long và bên hữu có Bạch hổ chầu vào tạo cho thế đất của ngôi đền tựa như một chiếc ngai rồng. Đồng thời đền quay mặt hướng Tây Nam, mang ý nghĩa giải thoát cho chúng sinh diệt trừ U Minh để đến với Giác Ngạn. Nhờ có trí tuệ làm đầu mà con người ở cõi Sa Bà Lìa bỏ tham, sân, si, ái, ố, hỉ,nộ đến với chính tâm. Với sự lựa chọn thyết phong thủy trên, người ta tin rằng khí thiêng của trời sẽ truyền sinh khí vào đất để sinh ra người hào kiệt; ban cho con người phúc, lộc, thọ, khang, ninh; mưa thuận, gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu; Phật đạo hanh thông và trường tồn.

Đền được hình thành cách đây khoảng trên 300 năm. Lúc đầu chỉ là am nhỏ thờ Thần chủ của Đền Thác Con Chầu Bà Đệ Nhị làm bà chúa bản đền. Bà thuộc nhân thần, có công đóng góp lương thực, tiền bạc giúp Vua Lê Lợi chóng giặc Minh ở vùng biên ải Hà Giang, Tuyên quang, Cao bằng nên sau khi bà hoá, Vua Lê đã phong tặng cho bà danh hiệu: “Thượng Ngàn Thánh Mẫu” với dân gian, tôn kính bà làm Thánh Mẫu (Mẫu Thượng Ngàn), nằm trong hệ thống thờ đa thần theo phong tục của người miền núi Hà Giang và hệ thống thờ Tứ Phủ: Thiên Phủ, Thuỷ Phủ, Địa Phủ, Nhạc Phủ (Nhạc Phủ có nghĩa là rừng) am bà chúa Thượng Ngàn là thờ Bà chúa rừng của đất Hà Giang.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Với kiến trúc mang nét văn hoá phương đông, đền được chia làm 3 khu: khu nhà chờ, khu thờ Phật, khu thờ các vị Thánh hàng Tứ phủ. Xung quanh là những khuôn viên rộng, những hòn non bộ. Với những kiến trúc độc đáo,khuôn viên đẹp. Đền Thác Con được xếp là khu đền đẹp của thành phố Hà Giang Đền còn có tên nữa là đền Thác Gia. “Gia” có nghĩa là bà mẹ nhân từ của người dân Hà Giang, được thờ ở khu vực Thác Con. Trong đền ngoài thờ Bà chúa Thượng Ngàn còn thờ mẫu Liễu Hạnh và thờ hai Công chúa nhà Mạc.

Hằng ngày, du khách vào đền thắp hương thường đi theo cổng sau. Vào tới cửa đền, những bon chen đời thường bỗng tan biến, chỉ còn lại “tâm không” hòa vào không gian tĩnh lặng dưới làn khói hương cùng với lời thỉnh cầu thì thầm tới phật thánh ban phương lành. Ánh sáng của đèn nến, màu sắc của tượng pháp và đồ thờ ( hoàng phi,câu đối, án gian, cờ lọng, bát bửu) càng tôn lên giá trị văn hóa, nghệ thuật, tâm linh của ngội đền danh tiếng đất cao nguyên đá Hà Giang.

Hệ thống tượng thờ đền Thác con rất phong phú, vừa mang nét chung của thần điện thờ Tứ phủ vừa mang nét riêng của hệ thống tín ngưỡng dân gian ở địa phương, Trong hệ thống tượng thờ ở đền Thác con, thì tượng Chầu Bà Đệ Nhị đẹp nhất không chỉ thể hiện được hình dáng bên ngoài mà còn lột tả phần nội tâm bên trong, làm cho pho tượng đẹp đẽ một cách linh thiêng, vi diệu. Ngoài ra, tại đền Thác con còn lưu giữ nhiều bức hoành phi, câu đối, đại tự, cửa võng được chạm trổ tinh xảo với các họa tiết hoa văn như: hoa cúc mãn khai, hoa sen, chim trĩ, rồng chầu mặt nhật…; các đồ thờ bằng đồng (bát hương, chuông đại hồng chung); bát hương bằng sứ; bộ bát bửu và kiệu bát cống, tứ cống làm bằng gỗ, sơn son thiếp vàng là tài sản vô giá về văn hóa vật chất và tinh thần của bản đền.

Trong năm, đền Thác con có một số ngày lễ chính như: Lễ xông đền vào lúc giao thừa, lễ khai xuân ngày Rằm tháng Giêng, lễ kỵ Chầu Đệ Nhị vào ngày 6 tháng 3, lễ vào hè ngày mừng 4 tháng 4, lễ tán hạ nhập thu vào ngày mừng 4 tháng 8 và lễ tạ cuối năm vào ngày 25 tháng chạp.

Với những giá tri lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tâm linh như trên, đền Thác con không chỉ xứng danh “một bảo tàng sống” lưu giữ các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của quốc gia mà còn là điểm du lịch tâm linh, điểm tham quan nghiên cứu, sinh hoạt văn hóa cộng đồng trong và ngoài tỉnh rất hữu ích. Thông điệp của các bậc tiền nhân là gửi gắm vào các tác phẩm nghệ thuật, vào kiến trúc tôn giáo làm nhịp cầu văn hóa truyền tải ý tưởng của trời đất, của thánh thần, của cha ông tới thế hệ con cháu hôm nay và mai sau.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: 160 Nguyễn Thái Học, tổ 8, phường Trần Phú, thành phố Hà Giang, tỉnh Hà Giang (cũ) Vietnam

Điện thoại: 0913271478

freSy with passion

Chùa A Di Đà Diệu Pháp

freSy with passion

Giới thiệu

Chùa A Di Đà Diệu Pháp (thị trấn Nông Trường Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, Hà Giang) là một ngôi chùa Bắc Tông tương đối mới, được xây dựng ven Quốc lộ 2 để đáp ứng nhu cầu tâm linh của đồng bào địa phương, đặc biệt là các dân tộc thiểu số vùng cao

Lịch sử

Chùa tọa lạc ngay trên Quốc lộ 2, tổ 2, thị trấn Nông Trường Việt Lâm (Vị Xuyên), với khuôn viên thoáng đãng và dễ tiếp cận từ thành phố Hà Giang.

Theo phong cách Phật giáo Bắc Tông, chùa bố trí cổng Tam quan, điện Tam Bảo, giảng đường và khu vườn, tạo không gian thanh tịnh, thích hợp cho tu tập, thiền hành và lễ bái.

Hiện tại chưa có nhiều tài liệu công khai về năm thành lập và quá trình khởi dựng chi tiết của chùa.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Là “cột mốc tâm linh” mới của huyện Vị Xuyên, chùa góp phần gắn kết cộng đồng, nâng cao đời sống tinh thần cho bà con vùng cao, đồng thời khẳng định dấu ấn văn hóa Phật giáo trên mảnh đất biên cương.

Chùa cũng thường xuyên phối hợp tổ chức các chương trình từ thiện, lễ cầu an và khóa tu ngắn hạn cho Phật tử bản địa.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Quốc lộ 2, tổ 2, thị trấn Nông Trường Việt Lâm, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, Việt Nam

freSy with passion

Dinh Vua Mèo

freSy with passion

Giới thiệu

Khu dinh thự của vua Mèo, tên dùng trong các văn bản là Dinh thự họ Vương hay còn được gọi với tên Nhà Vương tọa lạc trong một thung lũng thuộc địa bàn xã Sà Phìn, huyện Đồng Văn, Hà Giang. Toàn bộ dinh thự vua Mèo có diện tích gần 3.000 m2, được khởi công vào năm 1898 và hoàn thành vào 9 năm sau đó tức 1907. Quá trình xây dựng tốn 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương, tương đương 150 tỷ đồng ngày nay.

Dinh thự Vua Mèo hay còn được biết đến với cái tên Dinh thự họ Vương, tọa lạc tại thung lũng Sà Phìn, xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, cách trung tâm thành phố khoảng 125km và cách cao nguyên đá Đồng Văn nổi tiếng chỉ 15km. Căn nhà cổ này gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của 2 cha con người Mông là Vua Mèo Vương Chính Đức và Vương Chí Sình (hay Vương Chí Thành). Ông Vương Chính Đức (1886 - 1962) là người đứng đầu chế độ thổ ty phong kiến miền núi của dân tộc Mông nên còn được gọi với cái tên đầy quyền lực là Vua Mèo. Còn con trai ông là người đi theo con đường cách mạng, nhờ những cống hiến cho đất nước nên được bầu làm đại biểu Quốc hội 2 nhiệm kỳ đầu tiên.

Khu dinh thự đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp vào hạng di tích quốc gia ngày 23 tháng 7 năm 1993.

Lịch sử

Trước khi khởi công xây dựng, vua Mèo Vương Chính Đức đã sang Trung Quốc tìm thầy phong thủy sang Việt Nam đi qua khu vực 4 huyện nằm trong quyền cai quản của mình để chọn địa thế đất. Cuối cùng, Vương Chính Đức và thầy quyết định dừng chân tại thôn Xà Phìn, địa thế đất nằm giữa thung lũng Sà Phìn. Đặc biệt, ở nơi đây có một khối đất nổi lên cao như hình mui con rùa, tượng trưng cho thần kim quy. Nếu xây dựng dinh thự tại đây thì sự nghiệp của Vương Chính Đức sẽ thành về sau.

Công trình được bắt đầu xây dựng vào năm 1898 và chính thức hoàn thành vào năm 1907, tiêu tốn một khoảng tiền khổng lồ là 15 vạn đồng bạc trắng Đông Dương, tương đương với 150 tỷ VNĐ ngày nay. Dinh thự được thiết kế và xây dựng bởi những người thợ Vân Nam Trung Quốc kết hợp với đồng bào người Mông, tạo ra một công trình rộng hơn 1200m2 trên diện tích khoảng 3000m2. Nhờ lịch sử lâu đời và giá trị văn hóa không thể bàn cãi, Dinh thự Vua Mèo đã được Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng di tích quốc gia năm 1993, sau gần 1 thế kỉ tồn tại. Ngoài ra dinh thự này cũng mất đến 5 năm để khởi công xây dựng bởi và tất cả đều được xây dựng bằng sức người chứ không hề dùng phương tiện máy móc gì.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Dinh thự vua Mèo có ảnh hưởng kiến trúc của 3 nền văn hóa: Trung Quốc, người Mông và Pháp, do một người thợ quê gốc Nam Định thiết kế. Ngôi nhà có 4 nhà ngang, 6 nhà dọc, được chia thành tiền dinh, trung dinh và hậu dinh có 64 buồng được xây 2 tầng tường bằng đá xanh, mái vách bằng gỗ thông và ngói làm từ đất nung. Lối dẫn vào nhà được làm bằng những phiến đá hoa cương có chạm khắc nhiều hoa văn, mái nhà cong, uốn lượn, mái cổng được làm bằng gỗ lợp ngói âm dương, chạm khắc tinh xảo, nhiều hoa văn.

Khu Tiền dinh là nơi ở của lính canh, lính hộ vệ và nô tì. Trung dinh và Hậu dinh là nơi ở, làm việc của thành viên trong gia tộc họ Vương. Lúc ban đầu, toàn bộ gỗ được dùng trong ngôi nhà đều là gỗ thông đá. Nhưng kể từ khi trở thành tài sản của Nhà nước, tất cả các vật liệu gỗ của ngôi nhà đã bị thay đổi khoảng 60% bằng gỗ lim và gỗ nghiến.

Phía ngoài gian chính giữa có treo một bức hoành phi bằng chữ Hán do vua nhà Nguyễn Khải Định phong tặng vua Mèo "Biên chính khả phong".

Tường bảo vệ bên ngoài được xây cao vút, có quân lính bảo vệ nên khó có thể đột nhập từ bên ngoài, cách mỗi đoạn tường lại được bố trí các lỗ châu mai và chòi canh để bảo đảm sự an toàn cho cả khu dinh thự. Phía sau dinh thự có một bể chứa nước rất lớn có thể tích 300m3 được xây dựng toàn bộ bằng đá, thiết kế hứng nước mưa từ trên các dãy nhà xuống. Do nằm trong vùng thường xuyên khô hạn nên ngày nay chiếc bể nước này là nguồn cung cấp nước chính cho nhân dân ở Sà Phìn.

Bức hoành phi trong dinh thự họ Vương

Bức hoành phi này do vua Khải Định phong tặng cho vua Mèo vào năm Khải Định thứ VIII (năm 1923). Các dòng chữ Hán trong hoành phi, đọc từ phải sang trái, được viết và dịch như sau:

Hán tự:


恭颂
帮佐王公正德 德政
边政可風
啓定八年孟冬暢月復旦公立

Hán - Việt:


Cung tụng
Bang tá Vương Công Chính Đức Đức Chính
Biên Chính Khả Phong
Khải Định Bát Niên Mạnh Đông Sướng Nguyệt Phúc Đán công lập

Dịch:


Cung tụng, khen ngợi
Việc trị vì bằng Đức của vị Bang tá tên Chính Đức
Cách trị vì của ông ở miền biên cương này đáng làm mẫu mực để mà lan toả khắp vùng
Hoành phi được lập vào tháng 10, tháng 11 năm Khải Định thứ Tám
Câu đối dưới bức hoành phi

Ngoài ra, dưới bức hoành phi này là cặp câu đối đã phai màu. Cặp câu đối có các dòng chữ Hán, đọc từ cột phải sang cột trái, được dịch như sau:

Hán tự:


門拱紫宸家增福壽
大開黄道堂現禎祥

Hán - Việt:


Môn củng tử thần, gia tăng phước thọ
Đại khai hoàng đạo, đường hiện trinh tường

Dịch:


Cửa trổ đất sinh thiên tử, gia đình được tăng phước thọ
Hoàng đạo khai thông rộng mở, chốn quan hiển hiện điềm lành

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: thung lũng Sà Phìn, xã Lũng Phìn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang

freSy with passion

Tổng hợp từ Internet

Bài viết khác

The ÂN - Working with love
Tài trợ & Đối tác
KHỞI NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: HÀNH TRÌNH TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG
The ÂN - Working with love
The ÂN - Working with love
Tình yêu thương

đến từ khách hàng của freSy!

Nhận tin mới nhất