Việt Nam

[Bản Đồ Tâm Linh] Hành Trình Đến Với 10 Ngôi Chùa Cổ Xứ Kinh Kỳ

Blog


Hà Nội không chỉ hấp dẫn du khách bằng những dãy phố cổ kính, những góc café vương vấn hương thơm, mà còn sở hữu một “bảo tàng sống” về kiến trúc Phật giáo trải dài khắp 30 quận, huyện. Từ những ngôi chùa khởi lập cách đây hơn nghìn năm dưới triều Lý, đến những khuôn viên chùa nằm e ấp ven hồ, rợp bóng cây cổ thụ… mỗi ngôi đều mang trong mình một trang sử, một truyền thuyết, và một vẻ đẹp riêng đầy thiêng liêng.

freSy with passion

Trong bài viết này, freSy sẽ đồng hành cùng bạn khám phá 10 ngôi chùa nổi tiếng nhất tại Hà Nội, nơi hội tụ tinh túy của văn hóa – tín ngưỡng và kiến trúc Việt. Mỗi chùa được chọn lọc không chỉ bởi lịch sử lâu đời, mà còn bởi những điển tích, lễ hội đặc sắc gắn liền với đời sống tâm linh của người dân Thăng Long – Hà Nội. Bên cạnh việc giới thiệu vị trí và đặc điểm kiến trúc độc đáo, bạn còn tìm thấy câu chuyện về nguồn gốc, những sự kiện, lễ hội truyền thống cùng các hướng dẫn chi tiết. Hãy cùng chuẩn bị hành trang để có chuyến “hành hương” khám phá những không gian linh thiêng, và cảm nhận hơi thở của quá khứ hòa quyện trong nhịp sống hiện đại nơi mảnh đất kinh kỳ này.

1. Chùa Một Cột (Diên Hựu)

Giới thiệu

Chùa Một Cột có tên ban đầu là Liên Hoa Đài (蓮花臺) tức là Đài Hoa Sen với lối kiến trúc độc đáo: một điện thờ đặt trên một cột trụ duy nhất. Liên Hoa Đài là công trình nổi tiếng nhất nằm trong quần thể kiến trúc Chùa Diên Hựu (延祐寺), có nghĩa là ngôi chùa "Phúc lành dài lâu". Công trình Chùa Diên Hựu nguyên bản được xây vào thời vua Lý Thái Tông mùa đông năm 1049 và hoàn thiện vào năm 1105 thời vua Lý Nhân Tông nay đã không còn. Công trình Liên Hoa Đài hiện tại nằm ở Hà Nội là một phiên bản được chỉnh sửa nhiều lần qua các thời kỳ, bị Pháp phá huỷ khi rút khỏi Hà Nội ngày 11/9/1954 và được dựng lại năm 1955 bởi kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng theo kiến trúc để lại từ thời Nguyễn. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo ở Việt Nam.

freSy with passion

Lịch sử

Thời Lý

Chùa Diên Hựu được vua Lý Thái Tông cho khởi công xây dựng vào mùa đông tháng mười (âm lịch) năm 1049.

Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028-1054) và theo gợi ý thiết kế của nhà sư Thiền Tuệ. Vào năm 1049, vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên tòa. Khi tỉnh dậy, nhà vua kể chuyện đó lại với bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột gỗ Lim như trong chiêm bao, làm tòa sen của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa mang tên Diên Hựu.

Vào thời vua Lý Nhân Tông, chùa Diên Hựu được sửa và hoàn thiện:

Ất Dậu, /Long Phù/ năm thứ 5 (1105), Tống Sùng Ninh năm thứ 4. [...] Bấy giờ vua sửa lại chùa Diên Hựu đẹp hơn cũ, đào hồ Liên Hoa Đài, gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ gọi là hồ Bích Trì, đều bắc cầu vồng để đi qua. Trước sân chùa xây bảo tháp.
Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản kỷ toàn thư, trang 14b-15a)

Hằng năm cứ đến ngày 8 tháng 4 âm lịch, vua lại tới chùa làm lễ tắm Phật. Các nhà sư và nhân dân khắp Kinh thành Thăng Long cùng dự lễ. Sau lễ tắm Phật là lễ phóng sinh, vua đứng trên một đài cao trước chùa thả một con chim bay đi, rồi nhân dân cùng tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội lớn.

Thời Trần - Lê - Nguyễn

Đến thời nhà Trần, chùa đã không phải là ngôi chùa nhà Lý nữa vì sách cũ đã ghi: Năm 1249, "...mùa xuân, tháng giêng, sửa lại chùa Diên Hựu, xuống chiếu vẫn làm ở nền cũ...".

Theo cuốn Hà Nội-di tích lịch sử và danh thắng, nhóm các nhà sử học Đinh Xuân Lâm, Doãn Đoan Trinh, Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân, Nguyễn Thanh Mai, Đàm Tái Hưng tiến hành nghiên cứu văn bia dựng tại chùa năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) đời vua Lê Huyền Tông do Tỳ khưu Lê Tất Đạt khắc ghi, thì thấy rằng: tại vị trí chùa Một Cột ngày nay, vào thời nhà Đường (năm Hàm Thống thứ nhất) một cột đá trên có ngôi lầu ngọc (với tượng Phật Quan Âm ở trong) đã được dựng giữa một hồ nước vuông. Vua Lý Thái Tông thường đến cầu nguyện, khi được hoàng tử nối dõi liền tu sửa lại thành chùa, xây thêm một ngôi chùa bên cạnh chùa Một Cột (cách 10m về phía Tây Nam) và đặt tên cả quần thể chùa này là Diên Hựu tự (với nghĩa là "phúc lành dài lâu").

Đến thời Lê Trung Hưng, chùa Diên Hựu và Liên Hoa Đài đã xuống cấp trầm trọng:

Từ trung hưng đến nay, ao sen hoang tàn, hành lang đổ nát, chỉ còn cây cột, trên đỉnh cột có tòa lầu nhỏ, trong thờ tượng Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, phía trước có bắc cây cầu vồng lợp mái cong. Ngôi tiền điện phía nam ao lợp bằng tranh tre. Năm Ất Sửu niên hiệu Gia Long (1805), đắp thành Thăng Long, cây cầu vồng bị triệt bỏ, cảnh chùa càng thêm hoang phế. Dân cư tương truyền, bùn đất trong ao lẫn vô số kể kim sắt…, người ta cho là nơi Cao Biền trấn yểm.
Chùa Diên Hựu – Một Cột: Lịch sử và biểu tượng

Thời Nguyễn, chùa Một Cột được trùng tu vào khoảng những năm 1840-1850 và vào năm 1922.

Sau năm 1954

Năm 1954, quân đội Viễn chinh Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho đặt mìn để phá chùa Một Cột.

Sau khi tiếp quản thủ đô, Bộ Văn hóa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành trùng tu lớn chùa Một Cột (chùa Diên Hựu), xây dựng lại chùa Một Cột theo kiến trúc cũ. Chùa Một cột chúng ta thấy hiện nay được sửa chữa lại năm 1955 do Kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng đảm nhiệm.

freSy with passion

Biểu tượng chùa Một Cột

Chùa Một Cột đã được chọn làm một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, ngoài ra biểu tượng chùa Một Cột còn được thấy ở mặt sau đồng tiền kim loại 5000 đồng của Việt Nam. Tại thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phiên bản chùa Một Cột. Ngoài ra, tại thủ đô Moskva của Nga cũng có một phiên bản chùa Một Cột được xây lắp tại Tổ hợp Trung tâm Văn hóa - Thương mại và Khách sạn "Hà Nội - Matxcova". Chùa còn là biểu tượng cao quý thoát tục của con người Việt Nam.

Chùa Một Cột ngày nay cùng chùa Diên Hựu hiện đại (tức là quần thể chùa Diên Hựu xưa) được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia đợt đầu tiên năm 1962.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: P. Chùa Một Cột, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam

freSy with passion

2. Chùa Trấn Quốc

Giới thiệu

Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây (quận Tây Hồ). Chùa có lịch sử gần 1500 năm và được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội. Dưới thời nhà Lý và nhà Trần, chùa Trấn Quốc là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long.

Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang. Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc, chùa Trấn Quốc nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, là điểm thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử và khách tham quan, du lịch trong ngoài Việt Nam.

freSy with passion

Lịch sử

Theo Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam (Hà Nội, 1993), thì chùa Trấn Quốc nguyên là chùa Khai Quốc, dựng từ thời Tiền Lý (Lý Nam Đế, 541-547), tại thôn Y Hoa, gần bờ sông Hồng. Đến đời Lê Trung Hưng (1615), chùa được dời vào trong đê Yên Phụ, dựng trên nền cũ cung Thúy Hoa (thời nhà Lý) và điện Hàn Nguyên (thời nhà Trần). Trong các năm 1624, 1628 và 1639, chùa tiếp tục được trùng tu, mở rộng. Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính đã soạn bài văn bia dựng ở chùa vào năm 1639 về công việc tôn tạo này. Đầu đời nhà Nguyễn, chùa lại được trùng tu, đúc chuông, đắp tượng. Năm 1821, vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Vinh danh

Năm 2016, báo Daily Mail ở Anh xếp chùa vào trong số 16 ngôi chùa đẹp nhất thế giới. Năm 2017, trang web du lịch wanderlust.co.uk xếp vào vị trí thứ ba trong 10 ngôi chùa "đẹp nhất trên toàn thế giới" vì hài hòa với môi trường xung quanh.

Các khách thăm đặc biệt

  • Dưới triều vua Lý Nhân Tông, Thái hậu Ỷ Lan đã nhiều lần đến chùa cùng các vị cao tăng để đàm đạo.
  • Năm Kỷ Mão (1639) chúa Trịnh Tráng cho sửa và trồng sen quanh chùa, biến nơi thờ cúng thành hành cung riêng của nhà Chúa.
  • Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm, ban 20 lạng bạc để tu sửa chùa.
  • Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền để tu sửa chùa.
  • Ngày 24 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad đến thăm chùa và tặng cây bồ đề trồng trước cửa tòa Tam bảo.
  • Ngày 28 tháng 11 năm 2008, Tổng thống Ấn Độ Pratibha Patil đến thắp hương và tham quan nhân dịp trong chuyến công du Việt Nam.
  • Ngày 31 tháng 10 năm 2010, Tổng thống LB Nga Dmitry Medvedev đến tham quan trong dịp đến Hà Nội dự Hội nghị Cấp cao không thường niên ASEAN - LB Nga lần thứ hai.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Đường Thanh Niên, Yên Phụ, Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam

freSy with passion

3. Chùa Quán Sứ

Giới thiệu

Chùa Quán Sứ (舘使寺) là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Trước đây, địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương.

freSy with passion

Lịch sử

Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15. Nguyên xưa ở phường Cổ Vũ chưa có chùa, chỉ có mấy gian nhà tranh ở phía Nam, dân làng dùng làm chỗ tế thần cầu yên gọi là xóm An Tập. Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vào thời vua Lê Thế Tông, các nước Chiêm Thành, Ai Lao thường cử sứ giả sang triều cống Việt Nam. Nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến Thăng Long. Vì sứ thần các nước này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một ngôi chùa cũng nằm trong khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ. Thời gian đã xóa đi dấu khu nhà Quán Sứ nhưng ngôi chùa thì vẫn tồn tại.

Theo bài văn của Tiến sĩ Lê Duy Trung khắc trên tấm bia dựng năm 1855, vào đầu đời Gia Long (1802-1819) chùa gần đồn Hậu Quân. Đến năm 1822, chùa được sửa sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn này rút đi, chùa được trả lại cho dân làng. Nhà sư Thanh Phương trụ trì ở chùa lúc đó mới làm thêm các hành lang, tô tượng, đúc chuông. Tiền đường của chùa thờ Phật, còn hậu đường thờ vị quốc sư Minh Không thời Nhà Lý.

Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.

Là trụ sở trung tâm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Chùa Quán Sứ là nơi đặt văn phòng Hội đồng chứng minh và phòng khách quốc tế, văn phòng Hội đồng trị sự. Tại chùa cũng có giảng đường, hội trường và thư viện, văn phòng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, cũng là văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình ở Việt Nam. Chùa Quán Sứ cũng là nơi làm việc của các vị Hòa Thượng trong Hội đồng trị sự trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và các vị đại đức, thượng tọa, tăng ni của văn phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chùa cũng lưu trữ rất nhiều thư từ, tài liệu Phật giáo và là trung tâm giảng dạy, nghiên cứu, truyền bá Phật giáo lớn nhất Việt Nam.

Điểm đặc biệt

Chữ viết, câu đối trong chùa đều viết bằng chữ Quốc ngữ.

Du khách khi ghé thăm Chùa Quán Sứ sẽ nhận thấy một điều vô cùng đặc biệt. Mặc dù đã được xây dựng cách đây cả gần thế kỷ, nhưng tất cả các câu đối, chữ viết trong chùa đều được viết bằng chữ Quốc ngữ thay vì chữ Hán như những ngôi chùa khác. Đây là một điều cực kỳ độc đáo và hiếm hoi.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: 73 P. Quán Sứ, Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam

Facebook: https://m.facebook.com/chuaquansu.73quansu/

Điện thoại: 02439422427

freSy with passion

4. Chùa Phúc Khánh

Giới thiệu

Chùa Phúc Khánh là một trong những địa điểm tâm linh nổi tiếng của Hà Nội, thu hút cả ngàn người từ khắp tứ phương đến cầu an, lễ bái vào các dịp lễ rằm. Chùa Phúc Khánh (chùa Sở) là một trong những ngôi chùa cổ lâu đời nhất tại Hà thành. Tuy chỉ là một ngôi chùa nhỏ nằm giữa phố thị đông đúc, chùa Phúc Khánh vẫn khiến hàng nghìn Phật tử trên cả nước đổ về nườm nượp mỗi dịp mở lễ.

freSy with passion

Lịch sử

Chùa Phúc Khánh có tên khác là chùa Sở, hay còn được nhiều người dân Hà Nội gọi bằng chùa Thịnh Quang. Được biết, chưa có tài liệu nào ghi chép lại chính xác thời gian ra đời của ngôi chùa này.

Lịch sử chùa Phúc Khánh được xem là minh chứng sống của đất nước. Trải qua nhiều thăng trầm, sóng gió, chứng kiến biết bao sự kiện hào hùng của nước nhà, chùa Phúc Khánh vẫn trầm mặc, hiên ngang ở đó cho đến ngày hôm nay.

  • Tương truyền rằng, chùa Phúc Khánh được xây dựng từ cuối thời Trần, khi triều đình mở cuộc vi ngoại thành Thăng Long, người dân đất làng Sở đã đứng ra xây dựng một ngôi chùa nhỏ để vừa là nơi thờ Phật, vừa để tri ân công lao của đức vua nhà Trần.
  • Sang đến Hậu Lê, chùa Phúc Khánh trở thành cơ sở đào tạo các tăng tài cho Phật giáo. Tuy nhiên do gặp phải hỏa hoạn nên ngôi chùa đã bị hư hại hoàn toàn. Ngoài ra, cũng có tài liệu lịch sử cho rằng chùa nằm trong khu vực diễn ra trận đánh Đống Đa năm 1978 nên đã bị liên lụy dẫn đến đổ nát.
  • Đến thế kỷ 20, các Phật tử đã đóng góp không ít công sức, của cải để xây dựng các công trình tạo nên chùa Phúc Khánh như ngày hôm nay.
  • Vào các năm từ năm 1853-1998, chùa Phúc Khánh thường xuyên được trùng tu, sửa chữa để trở nên khang trang hơn.
  • Đặc biệt vào năm 1940, hoàng thượng trụ trì Thích Trung Thứ đã cho tu sửa lại chùa nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo tăng tài và cung cấp điểm an cư kiết hạ hàng năm cho các vị chư tăng.

Những di vật còn lưu giữ trong chùa Phúc Khánh

Cho đến nay, chùa Phúc Khánh vẫn là nơi lưu giữ rất nhiều các di vật quý giá với nhiều chất liệu khác nhau. Trong đó phải kể đến các pho tượng Phật như tượng A di đà, tượng Quan Thế Âm, Quan Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay,... được tạc khắc tinh tế, đạt tiêu chuẩn nghệ thuật điêu khắc đương thời. Một trong số các pho tượng này được tạc từ thời Tây Sơn, chình vì vậy cũng mang phong cách nghệ thuật tại thời điểm này.

Bên cạnh hệ thống các pho tượng Phật, chùa còn lưu giữ khoảng 21 tấm bia đá (tấm cổ nhất được dựng năm 1693), 3 Đại hồng chung có niên đại từ xa xưa đến nay. Bên cạnh đó là các di vật quý hiếm như Cửa võng, Hoành phi, Cuốn thư, Câu đối, Đỉnh trầm và nhiều món đồ thờ tự khác. Những hiện vật này đến nay vẫn được bảo tồn, là nguồn tư liệu quý giá minh chứng cho tuổi đời lịch sử của ngôi chùa này.

Vinh danh

Chùa Phúc Khánh vẫn giữ nguyên được những nét kiến trúc truyền thống xa xưa, là tinh túy vô giá của mảnh đất Thăng Long và là niềm tự hào của mỗi người con Thủ đô. Ngôi chùa này còn được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia vào năm 1988.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: 382 P. Tây Sơn, P, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam

freSy with passion

5. Chùa Vạn Niên

Giới thiệu

Nằm bên bờ hồ Tây tấp nập và nhộn nhịp, chùa Vạn Niên vẫn giữ cho mình được nét cổ kính nhưng đầy hấp dẫn. Ban đầu khi được xây dựng vào khoảng năm Thuận Thiên thứ hai (1011) sau khi vua Lý Công Uẩn dời đô ra Thăng Long (1010), chùa có tên là Vạn Tuế. Đến nay chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa, nhưng vẫn còn giữ được nét trang nghiêm với kiến trúc độc đáo.

Tuy chùa Vạn Niên nằm trên đường Lạc Long Quân luôn tấp nập người và xe qua lại, nhưng chùa vẫn giữ được cho mình cổ kính, thiêng liêng và thanh tịnh. Chùa có không gian tuy không lớn nhưng được bao trùm một màu xanh mát của cây cối, trong đó có rất những cây cổ thụ nhiều năm tuổi. Hiện nay, cổng chính của chùa Vạn Niên nằm ở bờ phía Tây của hồ Tây trước kia thuộc ấp Quán La (nay là phường Xuân La, quận Tây Hồ).

freSy with passion

Lịch sử

Đời Lý năm Giáp Dần, niên hiệu Thuận Thiên thứ Năm (1014), Thạch Nhai tăng thống Tấu xin cho lập giới đàn ở đây để tập hợp tăng đồ thụ giới, được chiếu chuẩn y. Nhiều nhà sư danh tiếng như Lâm Tuệ Sinh, Lý Thảo Đường kế tiếp nhau trụ trì ở đây. Về sau có vị tăng ở Quảng Châu là Biện Tài đến tu trì, có sách đối lục lưu hành ở đời.

Chùa Vạn Niên được xây dựng từ thế kỷ XI, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, là một trong những ngôi chùa cổ kính và có lịch sử lâu đời nhất tại Hà Nội. Năm 1014, thiền sư Hữu Nhai Tăng đã xin vua cho lập đàn tại vị trí của chùa Vạn Niên ngày nay. Sau khi được vua phê chuẩn, chùa đã bắt đầu được xây dựng.

Đến nay, chùa đã trải qua hơn 1000 năm với nhiều biến động lịch sử. Có những giai đoạn chùa Vạn Niên đã bị hư hại nghiêm trọng vì chiến tranh, sau đó đã được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn giữ được kiến trúc cổ kính và giá trị văn hóa đặc sắc.

Vào thế kỷ XV, chùa Vạn Niên đã trải qua một đợt trùng tu lớn, bổ sung nhiều tượng Phật và các công trình kiến trúc đặc trưng của Phật giáo. Qua các thời kỳ, đặc biệt là vào triều Nguyễn, chùa Vạn Niên tiếp tục được chăm sóc, bảo tồn và trở thành điểm hành hương nổi tiếng của người dân Hà Nội và các khu vực lân cận. Hiện nay, chùa Vạn Niên là nơi lui tới của những người mộ đạo, các Phật tử và du khách từ khắp nơi khi có dịp ghé thăm thủ đô.

Những di vật còn lưu giữ trong Chùa Vạn Niên

Bên trong chùa hiện lưu giữ 46 pho tượng quý, gồm 26 tượng Phật, 20 tượng Mẫu và tượng Tổ. Nhiều pho tượng có giá trị lịch sử và được tạc từ thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII - XVIII) và thời Nguyễn, mang nét đẹp cổ kính và giá trị nghệ thuật đặc biệt. Ngoài ra, chùa Vạn Niên còn lưu trữ các bộ sưu tập mang ý nghĩa văn hóa và lịch sử sâu sắc, như các sắc phong thần từ thời Lê và Tây Sơn, cùng với chuông đồng cổ từ thời Nguyễn. Chiếc chuông đồng mang tên "Vạn Niên Tự Chuông," được đúc dưới triều vua Gia Long (1802 - 1820), có khắc bài ký mô tả chùa Vạn Niên như một danh lam cổ kính tọa lạc ở phía Tây kinh thành Thăng Long xưa.

Bên cạnh đó, chùa còn được Phật tử tặng một pho tượng Thích Ca ngồi có chiều cao 1,3m, nặng gần 600kg được làm từ Phỉ Thuý (Jadeit tự nhiên) được khai thác từ Myanmar. Pho tượng Phật bằng ngọc quý này hiện nay được biết đến là “có một không hai” tại Việt Nam đã làm tăng thêm sự tôn nghiêm của ngôi chùa. Không chỉ mang nét cổ kính của kiến trúc xây dựng mà còn mang lại cảm giác của sự linh thiêng tại vùng đất Rồng phi thăng (Thăng Long - Hà Nội).

Vinh danh

Năm 1996, chùa Vạn Niên được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Đặc biệt, vào năm 2010, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, chùa đã làm lễ an vị và khánh thành Điện Phật Ngọc.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: 364 Đ. Lạc Long Quân, Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam

Website: https://chuavannien.vn/

Điện thoại: 02438363055

freSy with passion

6. Chùa Tây Phương

Giới thiệu

Chùa Tây Phương (tên chữ là Sùng Phúc tự 崇福寺) đây là tên chữ cổ của chùa, mang hàm nghĩa Tự là chùa, Sùng Phúc là nơi Đức Phật luôn hướng những điều thiện điều phúc đức. Đây là một ngôi chùa được xây trên đỉnh đồi Câu Lâu, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Chùa Tây Phương được biết đến là một trong những loại hình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, không chỉ thế nơi đây còn thu hút du khách bởi vẻ đẹp huyền bí và tĩnh lặng của núi rừng, sự linh thiêng hội tụ tinh hoa đất trời.

freSy with passion

Lịch sử

Một số sách báo viết về chùa Tây Phương cho rằng được xây dựng vào thời nhà Mạc, nhưng không chứng minh. Niên đại này có thể tin được, vì đầu thế kỷ 17 vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, hơn nữa trong chùa còn hai tấm bia đều bị mờ hết chữ nhưng còn đọc được rõ tên bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi (mặt bia kia áp vào tường hồi toà chùa giữa nên không đọc được), các hoa văn trang trí thuộc phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17.

Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657-1682, Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.

Thông tin trên trang web chính thức của tỉnh Hà Tây thì nói chùa được thành lập từ thế kỷ VI-VII nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu.

Truyền thuyết kể lại rằng, sự ra đời của ngôi chùa gắn liền với quá trình truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Muộn hơn vài thế kỷ, câu chuyện lại nghiêng sang một hướng khác, gắn với nhân vật Cao Biền – Tiết độ sứ thời nhà Đường (864 - 868) đã từng cai trị An Nam và đến đây xây dựng một kiến trúc tôn giáo, với ý đồ chặn long mạch xứ này.

Truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, còn chứng tích vật chất liên quan tới ngôi chùa, đó là thời Mạc Phúc Nguyên (1547 – 1561). Đây chính là thời điểm để ngôi chùa có quy mô như hiện nay. Sau đó, Vua Lê Thần Tông, Chúa Tây Vương Trịnh Tạc, Vua Lê Hy Tông có tu sửa thêm, nhưng không nhiều.

Lễ hội chùa Tây Phương

Hàng năm cứ vào tháng 3 âm lịch, người dân nơi đây lại nô nức mở hội chùa, lễ hội kéo dài từ ngày mùng 6 tháng 3 đến mùng 10 tháng 3 với nhiều hoạt động lễ hội đặc sắc thu hút nhiều du khách ghé thăm. Bên cạnh đó, lễ hội còn tổ chức nhiều trò chơi mang tính tập thể như kéo co, đánh vật, cờ người,...với mong muốn người dân có một năm mới ấm no hạnh phúc, luôn khỏe mạnh bình an.

Điểm đặc biệt

Từ chân núi, qua 237 bậc lát đá ong thì đến đỉnh núi và cổng chùa. Chùa Tây Phương gồm ba nếp nhà song song: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng sắc và không; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen. Mái lợp hai lớp ngói: mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót, còn gọi là ngói chiếu, hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm. Cột chùa kê trên những tảng đá chạm hình cánh sen. Toàn bộ ngôi chùa toát ra một tính hoành tráng và phóng khoáng phù hợp với triết lý "sắc sắc không không" của nhà Phật.

Nơi đây còn là nơi tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay thợ tài hoa của các nghệ nhân làng mộc ngay trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng Sơn Làng nghề mộc lâu đời và nổi tiếng của xứ Đoài.

Trong chùa có 64 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các tượng được tạc bằng gỗ mít được sơn son thếp vàng. Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ pháp, cao chừng 3 mét, trang nghiêm phúc hậu. Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm:

  • Bộ tượng Tam Thế Phật với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam thân: Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa thiền, y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể, được coi là có niên đại đầu thế kỷ 17.
  • Bộ tượng Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
  • Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích ca trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng về nội tâm.
  • Hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca Diếp đứng hầu.
  • Tượng đức Phật Di lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa mãn, sung sướng.
  • Tượng Văn thù Bồ Tát: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ.
  • Tượng Phổ Hiền Bồ Tát: chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục.
  • Tượng Bát bộ Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ.
  • Mười sáu pho tượng Tổ với phong cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Bà-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Thương Na Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đa, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa. Theo một danh sách tên các nhân vật được tạc tượng trong một tài liệu còn lưu truyền ở chùa thì đây là tượng các vị tổ Ấn Độ trong quan niệm của Thiền tông Trung Quốc (xem Nhị thập bát tổ).
freSy with passion

Mười tám vị tổ người đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên trời chỉ vào mây khói, pho thì hững hờ với ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch môi cười một mình nửa tinh nghịch nửa mỉa mai, có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn tròn trĩnh, pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, lại có pho như đang đắn đo phân bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai.

Tượng La Hầu La đúng là chân dung một cụ già Việt Nam, thân hình gầy gò, mặt dài, nhỏ, gò má cao, môi mỏng vừa phải. Chưa thấy pho tượng nào diễn tả y phục một cách hiện thực mà lại đẹp đến như thế. Dáng điệu một tay cầm gậy, một tay để trên gối rất thoải mái, đôi bàn tay trông thấy rõ từng đốt xương bên trong. Những người thợ mộc của làng nghề mộc truyền thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam.

Chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18).

Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm những câu thơ trong bài thơ "Các vị La Hán chùa Tây Phương" rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Núi Câu Lâu, thôn Yên, Thạch Thất, Hà Nội, Việt Nam

freSy with passion

7. Chùa Hương (Hương Sơn)

Giới thiệu

Chùa Hương (cách gọi dân gian) hay Hương Sơn là một quần thể Văn hóa - Tôn giáo của Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ Thần và các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm của cụm đình đền chùa này là chùa Hương (tức chùa Trong) nằm trong động Hương Tích ở hữu ngạn sông Đáy, thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

freSy with passion

Lịch sử

Chùa Hương có lịch sử từ thế kỷ 15, được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau đó bị hủy hoại trong chiến tranh Đông Dương năm 1947 rồi được phục dựng lại từ năm 1989 bởi Hòa Thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa Thượng Thích Thanh Chân.

Khi xưa vua Lê Thánh Tông đi tuần thú qua đây lần thứ 2 vào tháng giêng năm Đinh Hợi, niên hiệu Quang Thuận Thứ VIII (1467) đã đóng quân nghỉ lại ở thung lũng này và cho quân lính thổi cơm ăn, vua xem thiên văn thấy vùng này lâm vào địa phận của sao Thiên Trù (một sao chủ về sự ăn uống và biến động) nên nhân đấy đặt tên là chùa Thiên Trù.

Ba vị Hòa Thượng đời vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497) đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am Thiên Trù. Kể từ đó động Hương Tích được gọi là chùa Trong, Thiên Trù gọi là chùa Ngoài, rồi người ta lấy tên chung cho hai nơi và cả khu vực là chùa Hương hay “Hương Thiên Bảo Sái”.

Sau thời kỳ ba vị Hòa Thượng khai sáng, chùa Thiên Trù chùa Hương gián đoạn trụ trì, mãi tới niên hiệu Chính Hòa năm Thứ VII - 1686 của thời vua Lê Trung Hưng. Hòa Thượng Trần Đạo Viên Quang (tương truyền cũng là một quan chức trong triều đình đã treo ấn từ quan để đi tu) mới lại tiếp tục công việc tạo dựng.

Trải qua nhiều đời chư Tổ gây dựng, đến nửa đầu thế kỷ 20, nơi đây được khách thập phương ngợi ca ví như tòa lâu đài tráng lệ “Biệt chiếm nhất Nam thiên”. Nhưng đáng tiếc ngày 11 tháng 2 năm Đinh Hợi 1947, thực dân Pháp đưa quân vào đây đốt phá, biến Thiên Trù thành đống gạch vụn tro tàn. Năm 1948, giặc lại vào đốt phá lần nữa, rồi năm 1950 quân Pháp lại cho máy bay thả bom khiến cho mấy tòa cổ sái cao chất ngất của Thiên Trù bị san phẳng. Dấu vết xưa của Thiên Trù hiện nay chỉ còn lại vườn Tháp, trong đó có Bảo Tháp Viên Công, một công trình nghệ thuật đất nung của thế kỷ thứ XVII và cây Thiên Thủy Tháp.

Năm 1951, Hòa Thượng Thanh Chân đã cho dựng lên từ đống tro tàn đổ nát 6 gian nhà tranh để có nơi tu hành và nhang khói. Vào năm 1989, dưới sự trụ trì của cố Thượng Tọa Thích Viên Thành, Ban xây dựng Chùa Hương đã khởi công tái thiết lại chùa Thiên Trù đến năm 1991 thì khánh thành. Năm 1994, cổng Nam Thiên Môn cũng được hoàn thành, đứng sừng sững giữa núi rừng Hương Sơn. Những năm sau này, Thượng Tọa Thích Minh Hiền - trụ trì đời thứ XII - mở mang xây dựng thêm nhiều công trình mới, để đến ngày nay, chúng ta đến đây được chiêm ngưỡng quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng, rất đẹp.

freSy with passion

Lễ Hội Chùa Hương - Sự kiện không thể bỏ lỡ

Mỗi dịp tết đến xuân về, người dân cả nước lại nô nức hành hương về với đất Phật, tham gia lễ hội chùa Hương.

Ngày mồng Sáu tháng Giêng là ngày khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng Ba âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng du khách khắp bốn phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất Phật - nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành.

Đỉnh cao của lễ hội là từ sau Tết Nguyên Đán đến tháng Hai âm lịch. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút.

Ở chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Võng là "chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.

Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.

Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn… Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãn cảnh lạc vào non tiên cõi Phật.

Vinh danh

Quần thể Hương Sơn là một trong 21 Khu du lịch Quốc gia của Việt Nam và là Di tích Quốc gia Đặc biệt theo quyết định 2082/QĐ-TTg năm 2017.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội

Website: https://chuahuong.org.vn/

Email: huongtichtunglam@gmail.com - info@chuahuong.org.vn

freSy with passion

8. Chùa Hà

Giới thiệu

Chùa Hà (Chữ Hán: 河寺) có tên chữ là Thánh Đức Tự (Chữ Hán: 聖德寺), cùng với Đình Bối Hà, lập thành cụm di tích Đình - Chùa Hà nằm trên một mảnh đất, trước kia thuộc xóm Hà (nằm đối diện qua đường Cầu Giấy) - thôn Trung - xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, nay là số nhà 86 phố Chùa Hà, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Chùa Hà cùng với chùa Duyên Ninh là 2 ngôi chùa cầu duyên ở miền Bắc.

freSy with passion

Lịch sử

Về thời điểm có chùa Hà có hai truyền thuyết.

  • Truyền thuyết thứ nhất: vào thời Lý vùng Dịch Vọng đã có nhiều danh thắng nổi tiếng. Vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054 - 1072) lúc 42 tuổi vẫn chưa có con nên đã cầu tự ở một ngôi chùa mà sinh ra Thái tử Lý Càn Đức (Lý Nhân Tông), do đó ngôi chùa này gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện này. Trên đường đi vua còn ghé qua một ngôi chùa khác và ban tiền bạc cho chùa để trùng tu lại, vì vậy chùa này còn có tên là Thánh Đức tự. Vua Lý Thánh Tông đột ngột mất năm 50 tuổi, thái tử Càn Đức lên ngôi lúc 7 tuổi, tức là Lý Nhân Tông.
  • Truyền thuyết thứ hai: Chùa Hà được xây dựng lên để vua Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) bày tỏ lòng nhớ ơn các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã cưu mang mình và phế bỏ Lê Nghi Dân để đưa mình lên ngôi vua vào năm 1460.

Đình Bối Hà thờ Thành hoàng làng là Triệu Chí Thành. Triệu Chí Thành là con của ông Triệu Xương và bà Lý Thị Thích, người Chu Diên trang Thái Bình (nay là huyện Mê Linh, Hà Nội). Ngày 11 tháng 1 bà sinh hạ một cậu bé khôi ngô tuấn tú, tướng mạo lạ thường. Bấy giờ Triệu Việt Vương đóng đô ở Từ Liêm rồi rút về đầm Dạ Trạch để chống cự với quân của Trần Bá Tiên. Triệu Việt Vương được thần tiên Chử Đồng Tử ban cho móng rồng để chế tác nỏ thần đánh đuổi quân Lương. Triệu Chí Thành được trao chế tác nỏ, nỏ bắn bách phát bách trúng, mỗi lần bắn tiêu diệt hàng trăm quân địch, vì vậy tướng Dương Sằn đã bị bắn chết. Quân Lương đại bại chạy về Bắc quốc năm 550.

Sau khi dẹp yên quân Lương, Triệu Chí Thành lâm bệnh nặng, Triệu Việt Vương đến thăm và hỏi: Ngài cần gì trẫm sẽ báo đáp. Triệu Chí Thành trả lời: Thần không có ý nguyện gì, chỉ xin bệ hạ đem cờ tướng lệnh đã ban cho thần đến Thạch Bàn, Long Đầu tung lên trời, cờ bay đến đâu xin cho nhân dân ở đó được lập đền thờ và miễn mọi tô thuế lao dịch cho họ. Triệu Việt Vương vui vẻ nhận lời, ngày 12 tháng 8 năm đó liền sai đem cờ tướng lệnh đến Thạch Bàn, Long Đầu tung lên trời và Triệu Chí Thành cũng hóa. Cờ tướng lệnh bay tới trang Dịch Vọng Trung thì dừng lại, sứ thần biết tin về tâu với vua. Vua đã cho nhân dân địa phương lập đền thờ Triệu Chí Thành, gia phong là Đại Vương. Đền thờ Triệu Chí Thành nay là đình Thọ Tháp và đình Bối Hà thôn Dịch Vọng Trung. Như vậy đình Bối Hà được xây dựng từ năm 550 thời vua Triệu Việt Vương.

Trải qua bao phen binh hỏa, Thánh Đức Tự đã bị phá hủy nhiều lần. Đến năm 1680 chùa vẫn còn lợp lá gồi, tường xây bằng gạch vồ nên người dân gọi là chùa Vồi. Đến đời vua Lê Hy Tông (1675-1705) có hai người quê làng Thổ Hà - tỉnh Bắc Giang sang ở chùa để bán các đồ gốm sứ ở chợ trong và ngoài thành Thăng Long. Nhờ buôn bán phát đạt, hai gia đình này tình nguyện công đức số tiền lớn cùng nhân dân trong xóm xây dựng lại chùa với quy mô lớn bằng gạch ngói vào năm Chính Hòa (1680). Từ đó hai làng Thổ Hà và Dịch Vọng Trung kết nghĩa, đặt tên xóm có ngôi chùa là Bối Hà và chùa có tên nôm là chùa Hà. Đến ngày kỵ hàng tháng, hàng năm ở Thổ Hà, nhân dân xóm Bối Hà cử đoàn đại biểu sang lễ và ngược lại. Diện mạo của chùa hiện nay chính là kết quả của lần trùng tu lớn đó và những lần trùng tu sau này.

Phường Dịch Vọng và ban quản lý di tích chùa triển khai nâng cấp, xây dựng lại chùa Hà và đình Bối Hà rất khang trang, bề thế từ năm 1995 - 2003, tam quan được giữ nguyên vẹn.

freSy with passion

Những di vật còn lưu giữ trong Chùa Hà

Các công trình kiến trúc của chùa được quy hoạch tập trung trong một khoảng không gian rộng thoáng. Ngoài cùng là cổng Tam quan xây hai tầng có hệ thống cầu thang lên ở phía trái. Tầng trên xây kiểu chồng diêm, giữa bờ đinh mái thượng đắp nổi hình mặt trời lửa đặt trên hình hổ phù, hai đầu kìm đắp hình rồng đuôi xoắn, miệng ngậm bờ nóc, mái lợp giả ngói ống. Tầng dưới chia làm ba gian, với 12 cột trụ xây nổi trên mặt tường. Tam quan có ba vòm cửa, cửa giữa rộng hơn.

Tầng hai Tam quan treo chuông đồng Thánh Đức tự chung niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7 (1799), một di vật thời Tây Sơn còn bảo quản nguyên vẹn. Chuông cao 1m20, chu vi đáy 1m80 được đúc tinh tế, phần trên bốn múi chuông được khắc nội dung văn chuông, phần dưới được khắc tứ linh: long ly quy phượng cách điệu mà rất sống động. Phía trên là hai con bồ lao đầu nhìn về hai phía, bốn chân gắn chặt vào chuông.

Sau cổng tam quan là vườn cây xanh, hồ nước hình bán nguyệt, cây đa và sân chùa. Bên cạnh hồ nước là bia đá bốn mặt Thánh Đức tự bi mới được phục chế gần đây. Ba mặt bia khắc chữ Hán theo nội dung lưu tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán nôm, một mặt bia khắc chữ quốc ngữ. Bia chùa tạo năm Chính Hòa thứ 16 (1695), Tri huyện Nguyễn Đình Trạch soạn văn bia. Ở bên phải trước cửa chùa đặt 18 tấm bia hậu được tạo vào cuối thời Nguyễn ghi việc tu sửa và gửi hậu tại chùa.

Chùa Hà nhìn ra hướng tây, chùa chính kết cấu kiểu chữ Đinh có Tiền đường và Thượng điện, tam bảo năm gian rộng. Tòa phật điện của chùa được bố trí theo nhiều lớp. Lớp cao nhất là ba pho Tam thế thường trụ diệu pháp thân, đại diện cho Đức Phật ở thì hiện tại, quá khứ và tương lai. Lớp thứ hai: tượng A Di Đà có kích thước lớn, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. Phía dưới tượng A Di Đà: tượng A Nan Đà, Đức Ông. Đức Ông chùa Hà rất linh thiêng nên dân quanh vùng có câu Đức Ông chùa Hà, Đức Bà chùa Hương. Phía ngoài chính điện giáp với đại bái là tượng Thích Ca sơ sinh Lớp tượng ở nhà bái đường nổi bật nhất là tượng Thiên Tướng Hộ pháp cao lớn mặc áo giáp vàng ngồi trên con sấu. Hai bên đầu hồi còn đặt 8 vị Thần Vương Hộ pháp.

Phía sau chính điện của chùa là Điện Mẫu. Kiến trúc Điện Mẫu bao gồm phía trước là phương đình, phía sau là Thần điện. Trong phương đình có đặt đỉnh hương và đôi hạc lớn. Phía sau phương đình là nhà bái đường gồm 5 gian làm theo kiến trúc cổ. Gian chính giữa đặt Mẫu Thượng Thiên trang phục màu đỏ, bên trái là tượng Mẫu Thượng Ngàn trang phục màu xanh, bên phải là tượng Mẫu Thủy trang phục màu trắng, ngoài ra còn có tượng các ông hoàng, bà chúa, tượng cô cậu khác. Đặc biệt là bức phù điêu Bát Tiên treo bên trái hồi rất sống động. Bàn thờ phía dưới cùng của Điện Mẫu là Ngũ Hổ thần quan, hay gọi nôm là Quan Năm Dinh, biểu tượng bằng 5 mãnh hổ với màu sắc khác nhau.

Ở chùa Hà cách đây vài năm còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ bằng gốm như bát hương, chĩnh, ang, vại đựng nước thể hiện sự tôn kính và tín ngưỡng của người Thổ Hà xứ Kinh Bắc xưa kia. Hiện nay (2009) những hiện vật này đã bị bỏ đi hết, bát hương gốm cổ được thay thế bằng đồ đồng có khắc tên người công đức, đồ sành đựng nước thay bằng vòi nước máy. Chùa không những là chùa cầu duyên mà còn là khu du lịch cho những ai chưa đặt chân đến miền đất Hà Nội và nhất là đặt chân đến chùa.

Điểm đặc biệt

Không biết từ bao giờ, người dân Hà thành đã coi chùa Hà là nơi cầu duyên linh ứng. Những bạn trẻ chưa vợ, chưa chồng đến chùa để sắp lễ khấn cầu tìm được một nửa yêu thương. Những cặp đôi đang yêu cũng thành kính mong đợi tình duyên luôn êm đẹp, trăm năm hạnh phúc.

Dọc con phố đường vào chùa Hà chỉ bán hoa hồng - loài hoa là biểu tượng của tình yêu. Các cửa hàng lưu niệm quanh chùa cũng bán nhiều vòng nhẫn theo cặp. Vì vậy, đầu năm đến chùa, ngoài việc cầu xin bình an, tài lộc, người ta còn mong cầu cuộc sống lứa đôi thêm yên ấm, hạnh phúc, tình cảm mãi bền chặt không phai.

Chùa Hà đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa vào năm 1996. Hiện nay, mỗi năm đình và chùa Hà thường tổ chức các lễ hội gồm:

  • Ngày 11/1 âm lịch: Kỷ niệm ngày sinh của Thành hoàng Triệu Chí Thành
  • Ngày 12/2 âm lịch: Ngày cầu phúc, mong mưa thuận gió hòa, người khỏe của nhiều cho dân chúng.
  • Ngày 12/8 âm lịch: Kỷ niệm ngày hóa của Thành hoàng.

Trong các lễ hội tại chùa Hà thường diễn ra các tiết mục hấp dẫn như kéo co, đánh đu, đánh cờ người, múa sư tử, hát cửa đình,...

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: 86 Phố P. Chùa Hà, Dịch Vọng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam

freSy with passion

9. Chùa Láng

Giới thiệu

Chùa Láng, hay còn gọi là Chiêu Thiền tự (Chữ Hán: 昭禪寺), là một ngôi chùa ở làng Láng, Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Tên chùa có ý nghĩa rằng: "Vì có điều tốt rõ rệt nên gọi là Chiêu. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đại Thánh nên gọi là Thiền". Người Pháp gọi là Pagode des Dames.

freSy with passion

Lịch sử

Chùa tương truyền được xây dựng từ thời vua Lý Anh Tông (trị vì từ 1138 đến 1175). Chùa thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Theo truyền thuyết, nhà sư này đã đầu thai làm con trai một nhà quý tộc Sùng Hiền hầu, em vua Lý Nhân Tông. Vì vua Lý Nhân Tông (trị vì từ 1072 đến 1127) không có con, nên con trai của ông Sùng Hiền hầu được nối ngôi, tức vua Lý Thần Tông (trị vì từ 1128 đến 1138). Do sự tích ấy mà con của Lý Thần Tông là Lý Anh Tông đã cho xây cất chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha và tiền thân của Người là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa đã được trùng tu nhiều lần, những lần quan trọng nhất là vào các năm 1656, 1901 và 1989.

Sau nhiều lần tu bổ, điểm đến tâm linh Hà Nội này vẫn giữ nguyên cấu trúc ban đầu với vẻ đẹp trang nghiêm, cân đối và hài hòa cùng không gian xung quanh. Xưa kia, nơi này được coi là "Đệ nhất tùng lâm" vì có rừng thông đẹp nhất ở phía Tây của Kinh thành Thăng Long. Chùa Láng cũng đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá quốc gia từ năm 1962.

freSy with passion

Điểm đặc biệt

Chùa Láng, hay còn được biết đến là một ngôi chùa cổ xưa và trang nghiêm nhất tại khu vực Bắc Bộ. Vẻ đẹp kiến trúc và phong cách thiết kế của ngôi chùa này đã không chỉ làm tôn thêm vẻ đẹp của Thủ đô mà còn góp phần làm sáng thêm sự huy hoàng cho khu vực này. Những điểm đặc biệt đáng chú ý của ngôi chùa này có thể kể đến như:

  • Cổng tam quan: một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất ở Hà Nội có cổng được mô tả như giống một cổng cung vua với cấu trúc bao gồm 4 cột vuông và mái vòm gắn liền với sườn cột. Kiểu kiến trúc này tương đồng với cổng trong cung vua và được cho là thể hiện ý nguyện của bậc đế vương Lý Anh Tông khi cho xây dựng nơi này.
    Qua cổng tam quan sẽ là khoảng sân rộng được lát toàn bộ gạch Bát Tràng, có cả sập đá phía trên đặt kiệu thánh thường dùng cho các nghi lễ. Tam quan nội được xây với cấu trúc nhà ba gian, bao gồm hai hàng gạch chống tựa vào bốn lớp song song, xếp theo kiểu mái chồng. Bước qua tam quan nội, bạn sẽ thấy con đường dẫn vào chính điện được lát gạch sạch sẽ, hai bên là hàng muỗm cổ thụ rợp bóng mát. Dọc đường, bạn cũng sẽ thấy những mảnh sứ màu xanh có viết câu đối lên đó.
  • Nhà bát giác kiến trúc ấn tượng: trước khi đến với đền thờ, bạn sẽ thấy một con đường gạch đỏ nhỏ hơn dẫn vào nhà Bát Giác chùa Láng Hà Nội, nơi có kiến trúc đậm nét văn hóa. Tại đây, có tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh với lối kiến trúc mái trồng 2 tầng, 16 mái và trên đỉnh sẽ thấy 8 con rồng được đắp nổi, tượng trưng cho 8 đời vua nhà Lý.
    Khu nhà bát giác của chùa không chỉ nổi tiếng với kiến trúc cổ kính mà còn được biết đến với bộ sưu tập 198 pho tượng quý giá, đặc biệt nhất là tượng vua Lý Thần Tông ngự ở trên ngai vàng. Nơi này cũng là nơi lưu giữ nhiều bảo vật giá trị như: 15 bia đá, 31 câu đối, 39 bức hoành phi,...
  • Điện thờ đồ sộ, uy nghi: theo ghi chép lịch sử chùa Láng trước đây có tổng cộng 100 gian nhà. Tất cả đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc nội công ngoại quốc, kết hợp hài hòa giữa nét đẹp truyền thống và hiện đại. Kiểu kiến trúc với đặc điểm nổi bật là sự tồn tại của hai hàng lang dài nối kết giữa nhà tiền phòng và nhà hậu phòng với nhau, tạo ra một khung hình chữ nhật bao quanh. Trong trung tâm thường đặt Thượng điện hoặc nhà thiêu hương.

Mặc dù đã trải qua thời gian dài, khu vực này vẫn duy trì sự uy nghi và bề thế ban đầu. Không gian ở đây thể hiện sự hài hòa và cân đối giữa kiến trúc và thiên nhiên, với sân vườn xanh mướt và những cây cổ thụ bao quanh. "Đệ Nhất Tùng Lâm", tên gọi tượng trưng cho vẻ đẹp của rừng thông đỉnh cao ở khu vực phía Tây của Thăng Long xưa. Tuy nhiên, sau nhiều lần tu sửa, cây thông không còn được trồng ở đây như trước.

Khi đi qua cổng thứ hai của chùa Láng Hà Nội, theo con đường thần đạo, những phật tử từ mọi phương sẽ được thấy hai hàng cây muỗm cổ thụ, vỏ xù xì và hoa trắng, mỗi gốc cây có kích thước lớn, một người ôm không xuể. Khi những đóa hoa nở rộ, hương bưởi và hương cau trong khu vườn chùa hòa quyện với nhau, lan tỏa mùi thơm dịu nhẹ, khiến mọi người quên đi mọi mệt mỏi và phiền muộn của cuộc sống hằng ngày, tâm hồn trở nên thanh tịnh.

Lễ hội Chùa Láng

Mỗi năm, vào ngày mồng 7 tháng 3 âm lịch, người dân tại phường Láng Thượng lại tiến hành tổ chức lễ hội Chùa Láng với nghi thức trang trọng. Đây cũng chính là ngày sinh của Thiền Sư Từ Đạo Hạnh. Lễ hội bao gồm nhiều hoạt động thú vị, nhưng đặc biệt là phần rước kiệu Thánh từ Chùa Láng đến chùa Hoa Lăng để thăm thân mẫu. Tại lễ hội, người ta còn tái hiện lại cuộc đấu thần giữa Thiền Sư Từ Đạo Hạnh và sư Đại Điên.

Không chỉ có những nghi thức trang trọng, lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc như “bịt mắt đập niêu”, “thi thổi cơm”… mang đến niềm vui, xây dựng tình đoàn kết cho người dân trong làng cũng như du khách đến dự.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: 116 P. Chùa Láng, Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội

freSy with passion

10. Chùa Kim Liên

Giới thiệu

Chùa Kim Liên (Chữ Hán: 金蓮寺, Kim Liên tự) là ngôi chùa nằm trên một doi đất bằng phẳng trong làng Nghi Tàm, phường Quảng An, quận Tây Hồ (trước là xã Quảng An, huyện Từ Liêm), thành phố Hà Nội. Cuốn sách Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995 (do Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương xuất bản tại Hà Nội năm 1989) đánh giá: Chùa Kim Liên là một trong 10 di tích kiến trúc cổ đặc sắc nhất Việt Nam.

freSy with passion

Lịch sử

Vào thời Lý, vua Lý Thần Tông (1128-1138) cho lập ở vị trí này một cung điện mang tên cung Từ Hoa để Từ Hoa công chúa cùng các cung nữ trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nằm bên trong khu vực có tên là Trại Tằm Tang. Khi công chúa qua đời, trên nền cũ của cung điện dựng lên một ngôi chùa.

Sang thời Trần, trại Tằm Tang đổi thành phường Tích Liên và chùa được mang tên Đống Long. Đến thời Lê chùa mang tên Đại Bi. Tấm bia trong chùa dựng thời vua Lê Nhân Tông ghi rõ: "năm Thái Hòa thứ nhất (tức năm 1443) dựng chùa, gọi là chùa Đại Bi".

Năm 1771 đời Lê Cảnh Hưng chùa được trùng tu, sửa chữa lớn và mang tên Kim Liên Tự (chùa Kim Liên).

Năm 1792, đời vua Quang Trung, chùa được xây dựng lớn, về diện mạo cơ bản giống như hiện nay.

Năm 1793 cũng đời vua Quang Trung chùa đã hoàn tất về diện mạo.

Điểm đặc biệt

Từ xa nhìn lại, tam quan của chùa Kim Liên toát lên một vẻ đẹp thầm kín và kiêu hãnh với kiến trúc gỗ độc đáo: một hàng bốn cột gỗ tròn, bên trên có hệ con sơn đua rộng ra phía tầng dưới, thu hẹp dần ở tầng tên đỡ bộ vì mái với những tàu đao vút cong. Đôi cột cái ở giữa to cao nâng dải mái vươn lên tạo thành cổng lớn, cao rộng hơn hai cổng hai bên. Kiến trúc tam quan của chùa còn có những bức chạm nổi trên mặt gỗ với hình rồng, hình hoa lá tinh xảo, uyển chuyển.

Phong cách kiến trúc của chùa Kim Liên, có lẽ do ảnh hưởng từ nguồn cội là một vị trí cung điện và thờ một tôn thất nhà Lý, nên đượm dáng vẻ cung đình. Bố cục của chùa bao gồm một trục đối xứng từ tam quan đến nhà Tổ. Từ tam quan đi vào một khoảng sân dẫn vào ba nếp chùa xếp song song theo hình chữ "tam" (三), thứ tự từ chùa Hạ, chùa Trung quay mặt về hướng Tây đến chùa Thượng quay mặt về phía Đông. Ba lớp chùa được liên kết với nhau bằng tường gạch để trần có trổ cửa sổ tròn lồng chữ nhà Phật.

Mái chùa Kim Liên lợp ngói với cấu trúc hai tầng theo kiểu chồng diêm. Mỗi nếp 8 mái, có tám tàu đao hình rồng uốn cong. Chân cột kê trên đá tảng chạm hình hoa sen cách điệu.

Bên trong chùa Kim Liên có nhiều pho tượng rất đẹp, các pho tượng Phật được bày thành hai lớp, trên cùng là bộ Tam thế, tiếp theo là tượng A-di-đà, tượng Quan Thế Âm và tượng Đại thế chỉ ở hai bên cùng A Nan Đà, Ca diếp là hai đại đệ tử của Đức Phật. Lớp dưới là Quân âm chuẩn đề, tượng Ngọc Hoàng, dưới cùng là tòa Cửu Long. Ngoài ra, chùa Kim Liên còn có tượng Tĩnh đô vương Trịnh Sâm, người đã cấp tiền hưng công tu tạo chùa năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771). Các pho tượng đều mang phong cách điêu khắc thế kỷ XVIII-XIX.

Chùa còn lưu giữ được một tấm bia cổ hiện dựng phía bên phải cổng chùa trên bệ đá hình vuông, dù năm tháng đã làm phai mờ nhiều nét chữ nhưng còn xem được niên hiệu: Thái Hòa tam niên Ất Sửu, tức năm 1445 thời Lê Nhân Tông. Đây là tấm bia cổ nhất ở Hà Nội hiện nay.

Vinh danh:

Với nét kiến trúc cung đình xưa cổ kính, thiết kế chạm khắc tinh tế, chùa Kim Liên được ghi danh trong top 10 di tích kiến trúc tôn giáo cổ đặc sắc nhất Việt Nam. Ngoài ra, ngôi chùa này còn được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử kiến trúc và danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội vào năm 1962.

Hướng dẫn đường đi

Địa chỉ: P. Từ Hoa Đ. Nghi Tàm, làng, Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam

freSy with passion

Lưu ý chung cho khách thập phương:

  • Khi vào trong chùa nên đi vào bằng cửa bên phải và đi ra ở cửa bên trái. Không nên đi vào ở cửa giữa vì đây thường là cửa chỉ dành cho Thiên tử, bậc khoa bảng và các bậc cao tăng ra vào chùa.
  • Đi lễ chùa chỉ nên dâng hương hoặc sắm lễ chay, trong đó lễ chay gồm: bánh kẹp, hoa quả tươi, xôi chè... không sắm lễ mặn.
  • Không tự ý lấy hoặc sử dụng bất cứ đồ dùng nào của nhà chùa. Không tự ý mang bất cứ món đồ nào trong chùa về nhà.
  • Mặc trang phục lịch sự, giản dị, tránh những trang phục hở hang hay màu sắc sặc sỡ. Nên đi các loại giày dép dễ cởi.
  • Khi đi chùa không nên trang điểm đậm hoặc xịt nước hoa.
  • Không nói chuyện to, không đùa giỡn, không khạc nhổ.
  • Nên mang theo mũ nón hoặc dù che, nước uống và tiền lẻ.
  • Hầu hết các chùa không có bãi xe rộng, phí giữ xe máy từ 5.000 – 10.000 VNĐ.

Tổng hợp từ Internet.

Bài viết khác

The ÂN - Working with love
Tài trợ & Đối tác
KHỞI NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: HÀNH TRÌNH TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG
The ÂN - Working with love
The ÂN - Working with love
Tình yêu thương

đến từ khách hàng của freSy!

Nhận tin mới nhất