Việt Nam

[Điện Biên] Độc đáo bánh chưng đen của người Dao bên dòng Đà Giang

Blog


Đối với đồng bào dân tộc Dao - ngành Dao quần chẹt ở xã Huổi Só (huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên) thì bánh chưng đen là loại bánh đặc trưng mỗi dịp Tết đến, xuân về. Bánh chưng đen vừa để thể hiện tấm lòng biết ơn của người đang sống tới ông bà, tổ tiên của người Dao; vừa để cầu cho một năm mới an lành, hạnh phúc, gặp nhiều may mắn.

freSy with passion

Không giống như một số loại bánh chưng đen của người Thái hay người Nùng được lấy màu đen từ gạo nếp cẩm hay nhuộm màu từ than gỗ núc nác, bánh chưng đen của người Dao ở các bản dọc ven sông Đà, xã Huổi Só lại được lấy màu đen từ tro của thân rơm nếp đốt lên.

freSy with passion

Huổi Só nằm phía Nam và là xã xa nhất của huyện Tủa Chùa - vùng đất nằm cạnh sông Đà, giáp ranh của 3 huyện Tủa Chùa (Điện Biên) - Sìn Hồ (Lai Châu) và Quỳnh Nhai (Sơn La). Theo sử thoại thì từ xa xưa, người Dao - thuộc ngành Dao quần chẹt, đã có mặt ở các bản Tu Cha, Can Hồ, Pê Răng Ky, Huổi Lóng của xã Huổi Só từ rất sớm.

Để đến được “xứ sở” sản sinh ra loại bánh chưng đen độc đáo, chúng tôi phải vượt hành trình gần 200km về vùng đất Huổi Só đúng dịp xuân mới Giáp Ngọ cận kề. Tại đây, chúng tôi được ngắm những bản làng, nếp nhà sàn của người Dao đang quần tụ đầm ấm, soi bóng dọc sông Đà. Hai bên con đường từ bản Tù Cha đi về các bản Thôn 1, Pê Răng Ky, Huổi Lóng giờ đã được nhuộm vàng màu hoa dã quỳ.

Tìm đến nhà ông Lý A Ngắm, một người cao tuổi ở thôn 2, xã Huổi Só, chúng tôi được biết tục làm bánh chưng đen của dân tộc Dao đã có từ rất lâu và do ông cha truyền lại. Tuy cách làm bánh cổ truyền đã có thay đổi chút ít, song ý nghĩa thì vẫn vẹn nguyên ở màu đen của bánh.

freSy with passion

Ông Ngắm cho biết: “Màu đen của bánh là thể hiện sự hòa hợp của đất, của trời, của lòng người trong đó. Bánh làm ra có màu đen là biểu hiện mùa màng bội thu, đời sống của con người ngày càng no ấm... Với những ý nghĩa đó nên trong lễ, tết của người Dao không thể thiếu vắng chiếc bánh chưng đen”.

Theo Âm lịch thì thời gian Tết của người Dao ở xã Huổi Só trùng khít với lịch tết của người Kinh. Cứ độ khoảng cuối tháng 10 âm lịch, khi mùa màng vừa kết thúc cũng là lúc người phụ nữ Dao rục rịch chuẩn bị mọi nguyên liệu làm bánh chưng đen. Tuy nguyên liệu chế biến khá đơn giản, song để đảm bảo cho bánh có hương vị, màu sắc đẹp bắt mắt thì công đoạn chuẩn bị nguyên liệu lại tốn rất nhiều thời gian. Những bông lúa nếp chắc hạt sau khi thu hoạch từ nương sẽ được giã thủ công lấy gạo, phần rơm sẽ được xếp riêng, chọn lựa kỹ càng để tìm ra những cọng rơm to, vàng ươm rồi mang đi rửa sạch, phơi khô, bó buộc cẩn thận chờ đến ngày gần tết sẽ đem ra đốt để nhuộm gạo, làm bánh.

Theo chị Phàn Thị Khoa, bản Thôn 2, xã Huổi Só, huyện Tủa Chùa, trong 2 ngày 28 – 29 tháng Chạp, cả gia đình chị quây quần bên bếp lửa ấm cúng, vừa trò chuyện, vừa làm bánh. Lá dong, lá chuối được rửa sạch, lau thật khô, cắt vừa khuôn từ ngày hôm trước sẽ được hơ qua lửa cho mềm, trải lên mâm. Công đoạn “nhuộm” gạo nếp khá cầu kỳ, từng cọng rơm nếp được đưa ra đốt cháy để lấy tro, sau đó đem tro đi hòa với nước lạnh để lấy nước màu đen. Thứ nước màu đen này sẽ được đem trộn với gạo nếp dùng để gói bánh chưng đen.

freSy with passion

Cũng theo chị Khoa và nhiều phụ nữ ở các bản Thôn 2, Pê Răng Ky, Huổi Lóng thì khi trộn gạo nếp phải thật đều tay sao cho màu đen của nước tro ngấm đều vào từng hạt gạo nếp. Số lượng tro dùng hòa với nước để trộn với số lượng gạo làm bánh phải có tỷ lệ tương xứng, hài hòa, nếu nhiều tro quá bánh sẽ bị đắng, còn ít quá thì sẽ không nổi được màu đen đặc trưng của bánh.

Công đoạn gói bánh được xếp vào công đoạn quan trọng nhất vì nếu gói không khéo sẽ làm bánh không chặt, rơi gạo ra ngoài và không có hình dạng đẹp; thịt lợn làm nhân bánh cũng phải được dàn đều sao cho khi ăn, bánh cắt đến đâu cũng phải có thịt trong từng miếng đến đấy. Bánh chưng khi gói xong sẽ được xếp vào nồi đun trong 1 ngày để bánh nhừ, sau đó treo lên gác bếp chờ ráo nước. Trung bình gia đình chị và các gia đình trong thôn đều gói từ 23 – 25 chiếc để sử dụng dần trong ngày tết.

Bánh chưng đen của người Dao cũng được gói bằng lá chuối xếp ở dưới, lá dong đặt lên trên để bánh thấm được mùi thơm của lá dong, lại không bị cháy và gói theo một hình dạng nhất định: hình một ngọn núi. Phần lưng lồi lên giống như hình đỉnh núi và được bao quanh bởi 6 đường lạt dài chạy dọc quanh thân. Chiếc bánh nào hội tụ được những tiêu chí: phần gù càng nhô cao, càng cân đối thì càng đẹp, thể hiện được sự khéo léo của người phụ nữ ở gia đình đó. Đây sẽ là những chiếc bánh được lựa chọn để thờ cúng tổ tiên, mỗi lần thắp hương phải có đủ 7 chiếc và sau 2 ngày mới được gia chủ “hạ cỗ” khỏi bàn thờ gia tiên.

freSy with passion

Theo phong tục, quan niệm của người Dao quần chẹt ở xã Huổi Só, ngoài việc dùng để bày trên bàn thờ, thắp hương thờ cúng ông bà, tổ tiên bánh chưng đen còn được dùng trong các bữa cơm tết mời bà con trong họ hàng, làng bản. Cùng với rượu thóc và thịt lợn nấu trong ống nứa thì sự hiện diện của miếng bánh chưng đen thơm bùi hương vị của nếp mới trong mâm cỗ thể hiện sự ấm no của gia đình trong năm mới, cũng như làm ăn ngày càng khấm khá, phát đạt.

Theo ông Lý Thanh Dôn, Chủ tịch UBND xã Huổi Só, huyện Tủa Chùa: Hiện tại trên địa bàn xã Huổi Só có 6/9 thôn, bản là người Dao (chiếm 70%) sinh sống. Từ khi lòng hồ Thủy điện Sơn La đóng đập, tích nước Sông Đà (năm 2011), đời sống của nhân dân nơi đây có nhiều thay đổi, tạo điều kiện phát triển kinh tế, thông thương trao đổi hàng hóa. Cuộc sống “trên bến dưới thuyền” đã giúp người dân nơi đây phát triển ổn định hơn, bộ mặt các bản ven sông ngày càng ấm no hơn.

Với du khách phương xa như chúng tôi, hình ảnh những chiếc bánh chưng đen treo lúc lỉu trên gác bếp của mỗi gia đình đồng bào dân tộc Dao là tín hiệu một mùa xuân mới đang về. Bánh chưng đen quả là nét văn hóa của đồng bào dân tộc Dao ngành quần chẹt cần được bảo tồn, gìn giữ.

freSy with passion

Nguồn: TTXVN

Thông tin thêm về Dân Tộc DAO:

Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).

Tên gọi khác: Mán.

Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).

Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.

Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.

Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.

Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.

Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...

Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.

Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.

Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.

Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.

Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.

Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.

Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.

Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.

Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.

Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.

Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.

Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.

Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.

Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.

Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.

Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.

Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.

Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.

(Theo cema.gov.vn)

Bài viết khác

The ÂN - Working with love
Tài trợ & Đối tác
KHỞI NGHIỆP CÔNG NGHỆ THÔNG TIN: HÀNH TRÌNH TỪ Ý TƯỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG
The ÂN - Working with love
Tình yêu thương

đến từ khách hàng của freSy!

Nhận tin mới nhất