Tết Đoan Ngọ là một trong những ngày lễ Tết truyền thống ở Việt Nam. Tết Đoan Ngọ được tổ chức vào ngày mùng 5/5 âm lịch. Tết Đoan Ngọ là cái Tết chung của một số nước chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Tuy nhiên, ở Việt Nam, Tết Đoan ngọ còn mang những ý nghĩa khác biệt.
Hằng năm cứ đến mồng 5 tháng 5 (âm lịch) dân ta lại tổ chức ăn Tết Đoan ngọ. Tết Đoan ngọ còn được gọi là Tết Đoan dương. Đoan ngọ là bắt đầu giữa trưa (Đoan: mở đầu, Ngọ: giữa trưa) còn dương là mặt trời, là khí dương, Đoan dương có nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh.
Ở Việt Nam, Tết Đoan ngọ còn được dân gian gọi là bằng cái tên dân dã hơn là Tết giết sâu bọ. Đây là một trong những ngày lễ truyền thống có nội hàm văn hóa phong phú. Không chỉ riêng ở Việt Nam hay Trung Quốc mà ở Triều Tiên, Hàn Quốc cũng có Tết Đoan ngọ. Vì vậy, Tết Đoan ngọ thực chất là một phong tục lễ tết Á Đông gắn liền với quan niệm về sự tuần hoàn của thời tiết trong năm.
Vào cuối thời Chiến Quốc, có một vị đại thần nước Sở là Khuất Nguyên. Ông là vị trung thần nước Sở và còn là nhà văn hoá nổi tiếng. Tương truyền ông là tác giả bài thơ Ly Tao (thuộc thể loại Sở từ) nổi tiếng trong văn hóa cổ Trung Hoa, thể hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong với hoạ mất nước.
Do can ngăn vua Hoài Vương không được, lại bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa lại làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh, lấy bỏ gạo vào ống tre rồi thả xuống sông cúng Khuất Nguyên.
Ngoài ra, có truyền thuyết khác về sự bắt nguồn của ngày tết Đoan ngọ, nhiều nguồn tin cho rằng tập tục tết Đoan Ngọ là bắt nguồn từ Hạ Trí trong thời cổ, có người thì cho rằng, đây là sự tôn sùng vật tổ của người dân vùng sông Trường Giang.
Vào một ngày sau vụ mùa, nông dân ăn mừng vì trúng mùa nhưng sâu bọ năm ấy lại kéo dày ăn mất cây trái, thực phẩm đã thu hoạch. Nhân dân đau đầu không biết làm cách nào để có thể giải được nạn sâu bọ này, bỗng nhiên có một ông lão từ xa đi tới tự xưng là Đôi Truân.
Ông chỉ cho dân chúng mỗi nhà lập một đàn cúng gồm đơn giản có bánh tro, trái cây, sau đó ra trước nhà mình vận động thể dục. Nhân dân làm theo chỉ một lúc sau, sâu bọ đàn lũ té ngã rã rượi. Lão ông còn bảo thêm: Sâu bọ hằng năm vào ngày này rất hung hăng, mỗi năm vào đúng ngày này cứ làm theo những gì ta đã dặn thì sẽ trị được chúng.
Dân chúng biết ơn định cảm tạ thì ông lão đã đi đâu mất. Để tưởng nhớ việc này, dân chúng đặt cho ngày này là ngày "Tết diệt sâu bọ", có người gọi nó là "Tết Đoan ngọ" vì giờ cúng thường vào giữa giờ Ngọ.
Hiện ở một số làng quê Việt Nam vẫn còn giữ nếp xưa, rất coi trọng ngày Tết này. Sau Tết Nguyên Đán, có lẽ "Tết giết sâu bọ" là cái Tết sum họp đầm ấm nhất và có nhiều tục lệ gắn kết với đời sống của người dân... vì vậy con cháu dù làm ăn xa xôi mấy cũng cố thu xếp để về.
Vào thời điểm này, trái cây, hoa lá bắt đầu đơm hoa kết trái mong một mùa bội thu, vì vậy, hoa quả là thứ đồ cúng không thể thiếu. Ngoài ra còn có những món ăn khác tùy theo tập quán của từng địa phương.
Vào ngày này, cả làng nhộn nhịp hẳn lên, nhà nào cũng dậy từ sớm chuẩn bị phẩm vật cúng tổ tiên và hoa quả là thứ đồ cúng không thể thiếu. Người ta quan niệm rằng, đây là thời điểm quả trên cây, lá trên cành bắt đầu đơm hoa kết trái và cúng tổ tiên để mong một mùa bội thu.
Sau lễ cúng là các tục lệ giết sâu bọ. Cả nhà quây quần ăn những thứ quả chua, rượu nếp, bánh tro... để diệt trừ" sâu bọ", xua đuổi hết bệnh tật...
Theo lệ, đúng ngọ (12h trưa), người dân ở các vùng thôn quê rủ nhau đi hái lá. Đây là thời khắc có dương khí tốt nhất, là giờ mặt trời toả ánh nắng tốt nhất trong năm. Lá cây cỏ hái được vào giờ này có tác dụng chữa bệnh rất tốt như các bệnh ngứa ngoài da, nhất là các bệnh về đường ruột hay khi cảm mạo, đem những lá thuốc này nấu nước xông giải cảm rất tốt.
Ngày xưa, vào ngày này, người ta còn có tục nhuộm móng chân, móng tay, tục khảo cây lấy quả, tục treo ngải cứu để trừ tà... Những em bé chưa biết đi thì được lấy một ít vôi quyệt vào thóp, vào ngực và rốn để chúng không bị đau bụng, nhức đầu. Tuy nhiên, phần lớn các tục lệ này nay đã được bãi bỏ, chỉ còn giữ lại tục tắm nước lá và tục đi hái lá thuốc.
Nơi phố phường, thị thành, không nhiều vườn tược, cỏ cây, người dân có lệ đi mua lá thuốc mồng 5. Dịp này, những người buôn bán từ quê ra đều mang theo đủ thứ loại lá bày bán. Lá được xắt nhỏ, phân từng loại riêng biệt, người đi chợ chọn lấy những lá có mùi vị ưa thích mua về, đúng ngọ ngày mồng 5, lại đem ra phơi khô rồi bọc lại để trong tủ thuốc gia đình, dùng khi nhà có người ốm đau.
Theo truyền thống của từng miền, vào ngày này, ngoài hoa quả, những món ăn cũng khác nhau. Tại Hà Nội và một số vùng của miền Bắc ngày này, rượu nếp, đặc biệt là rượu nếp cẩm, là món không thể thiếu. Người ta cho rằng, bộ phận tiêu hoá của con người thường có các loại ký sinh gây hại và chúng nằm sâu trong bụng nên không phải lúc nào cũng diệt được. Duy có ngày mồng 5/5 (âm lịch), các loại ký sinh này thường ngoi lên, con người có thể ăn thức ăn, hoa quả vị chua, chát và nhất là rượu nếp, có thể loại bỏ chúng.
Theo dân gian, rượu nếp được ăn ngay khi vừa ngủ dậy thì rất hiệu nghiệm. Rượu này chủ yếu là xôi còn nguyên hạt lên men, còn gọi là "cái". Người dân thường dùng các loại gạo nếp trắng và cẩm đồ thành xôi, để nguội rồi rắc men, ủ trong ba ngày. Thúng xôi ủ được đặt trên một chiếc chậu, hứng lấy nước rượu để khi ăn, trộn với cái, tạo vị ngọt, cay rất dễ chịu. Người già, con trẻ đều có thể ăn loại rượu này.
Phụ nữ các vùng quê miền Bắc phần lớn đều biết "ngả rượu nếp" và thường tranh thủ dịp này ngả rượu để mang ra Hà Nội bán, có người chỉ trong một buổi sáng bán được đến cả 10 chậu nếp cẩm.
Cơm rượu miền Trung: Cơm rượu được làm từ phương pháp lên men cổ truyền. Đây là món tráng miệng, lại giúp dễ tiêu hóa nên đã được nhiều gia đình miền Trung tự chế biến trong bữa ăn. Cơm rượu nếp miền Trung thường có hình dáng vuông vức.
Cơm rượu nếp miền Nam: Ở các tỉnh miền Nam, cơm rượu nếp được gọi là cơm rượu. Cơm rượu không để rời mà viên thành từng viên tròn trước khi ủ. Món cơm rượu ở miền Nam thường có nước tiết ra và cũng được pha thêm nước đường, rất ngon nếu ăn kèm với xôi vò giống như món xôi chè ở miền Bắc.
Ở Huế, vào ngày này trên mâm cúng ngoài trái cây và xôi, còn có một món không thể thiếu là chè Kê.
Còn ở Đà Nẵng, món không thể thiếu trên mâm cơm cúng là bánh ú tro. Nhà nào cũng mua từ ba bốn chục bánh trở lên.
Ngoài ra, theo truyền thống của người miền trong, thịt vịt cũng là một thứ không thể thiếu cho ngày lễ này. Tại Sài Gòn, vịt quay, heo quay ngày này thường tăng hơn so với ngày thường.
Tục giết sâu bọ. Theo quan niệm xưa, khi thức dậy phải giết sâu bọ ngay vì thường ngày chúng ẩn sâu trong bụng, chỉ ngày Đoan Ngọ mới ngoi lên, cần phải dùng thức ăn để diệt trừ chúng như rượu nếp, bánh tro, các hoa quả có vị chua chát, uống rượu Hùng Hoàng, xương bồ, nước dừa… để trừ độc.
Tục bôi rượu cho trẻ em. Ngày Tết Đoan Ngọ, trẻ em thường được bôi vôi hoặc rượu vào chán, thóp, rốn để trấn an.
Gánh rượu nếp đi bán rong ở Thăng Long xưa trong ngày Tết Đoan Ngọ.
Mặc áo dấu cho trẻ em. Một số gia đình thường mang áo lúa mới đến chùa, đình xin ấn son rồi mang về cho trẻ con mặc để xua đuổi tà khí và tránh các tác động có hại của tự nhiên như nóng, rắn rết tấn công. Tục này mang hướng tâm linh, hiện đã mất trong vài thập kỷ trở lại đây.
Tục xâu lỗ tai cho bé gái trong ngày Tết Đoan Ngọ, vừa để làm đẹp, vừa đánh dấu sự trưởng thành của bé gái.
Tục nhuộm móng tay, móng chân. Vào đêm trước ngày 5-5 âm lịch, phụ nữ và trẻ em thường đi lấy lá móng về nhuộm móng tay, móng chân. Lá móng được giã nhỏ, thêm vài giọt nước chanh, trộn đều rồi đắp vào các móng tay, móng chân; dùng lá vông hoặc lá mướp, sợi rơm buộc lại. Sáng sớm 5-5 mở ra, các móng sẽ có màu đỏ tươi.
Gội đầu xông nước lá thơm vào ngày Đoan Ngọ giúp cơ thể thải độc, tinh thần thư thái, phấn chấn, phụ nữ có mái tóc đen, dài, mượt.
Làm bánh trôi dịp Tết Đoan Ngọ.
Tục đeo bùa ngũ sắc. Tết Đoan Ngọ, người lớn thường đeo cho các em nhỏ chùm bùa ngũ sắc (bùa thua, bùa túi) hoặc túi vải đựng hạt mùi khô ở ngự, buộc chỉ ngũ sắc ở cổ tay, cổ chân, với niềm tin rằng chỉ ngũ sắc ứng với ngũ hành sẽ có tác dụng trừ tà, bột hùng hoàng có tác dụng xua đuổi rắn rết, hạt mùi kị gió.
Tục hái thảo dược làm thuốc. Người xưa cho rằng giờ ngọ (11h-13h) dương khí thịnh nhất, là thời khắc mà dược tính trong các loại cây cỏ đạt tới mức cao nhất nên họ thường đi hái cây thuốc vào giờ này, mang về băm nhỏ, phơi khô để làm thuốc chữa bệnh cho cả năm. Loài thảo dược phổ biến nhất được hái là ngải cứu, đinh lăng, ích mẫu, tía tô, bồ công anh, sen, vòng, vối…
Tục chúc Tết - sêu Tết. Tết Đoan Ngọ là dịp thăm hỏi người thân cho tới những người mà mình mang ơn như thầy giáo, thầy thuốc. Đặc biệt, Tết Đoan Ngọ xưa có tục lệ những chẳng trai đã hỏi vợ nhưng chưa cưới thì phải đi sêu nhà bố mẹ vợ tương lai. Vật phẩm mang đi Tết là vài chục con chim ngồi, đôi ngỗng, gạo nếp, đậu xanh, đậu đen, đường đen và hoa quả…
Tục treo lá ngải/cây xương rồng. Ngày Đoan Ngọ, dân gian lấy lá ngải treo trước cửa nhà để tránh đau ốm và trừ tà. Tùy theo năm cầm tinh con gì mà ngải được kết thành hình con giáp theo năm đó. Một số vùng thì thay lá ngải bằng nhánh xương rồng hoặc lá liễu hoặc đặt chậu xương rồng trong nhà.
Tục đổ bệnh cho cây. Trong dân gian, ở một số vùng thường truyền nhau tục lệ vào đúng giờ Ngọ ngày Đoan Ngọ làm một số mẹo để phòng chữa bệnh như: cởi áo đánh trần xoa lưng vào cây chuối để hết rôm sẩy, chị eo phụ nữ lấy dây buộc vào cây sẽ hết đau lưng, đúng giữa trưa ngửa mặt lên trời hoặc nuốt hoa vừng sẽ khỏi bệnh về mắt…
Tục khảo cây. Theo dân gian, trong vườn nhà ai có cây trồng nhiều năm mà không ra trái, hoặc ra ít trái thì đến ngày Tết Đoan Ngọ chủ nhà sẽ làm khảo cây, thường là cây mít cây roi. Khảo cây có thể tiến hành bởi 1 hoặc 2 người, thường là trẻ em. Người khảo dùng gậy hoặc dao đánh vào thân cây, dọa không ra trái sẽ chặt cây, người ở trên ngọn đóng vai cây, van xin đừng chặt, hứa năm sau sẽ ra nhiều trái.
Tổng hợp từ Internet