Quả cau quen thuộc được xem là loại dược liệu rất hữu ích, đặc biệt trong điều trị giun sán, đau bụng hay bệnh sốt rét.
Cau là loại quả rất quen thuộc với người dân Việt Nam. Quả cau tách vỏ, kết hợp cùng lá trầu không và chút vôi tôi là món ăn vặt không thể thiếu với các bà, các cô thời xưa. Trầu cau cũng là những vật không thể thiếu trong các ngày lễ Tết, các đám hỷ, đám hiếu của người Việt. Chẳng thế mà từ lâu, hình ảnh lá trầu, quả cau đã đi vào những bài ca dao, những bài thơ cổ của người Việt và trường tồn đến tận bây giờ.
Không chỉ là loại quả tượng trưng cho văn hóa, cau còn được dùng làm thuốc trong Đông y. Cuốn sách "Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam" (NXB Khoa học và kỹ thuật), nơi tập hợp nhiều nghiên cứu của các chuyên gia dược học, y học cổ truyền hàng đầu Việt Nam đã chỉ ra rất nhiều công dụng chữa bệnh của quả cau.
Theo đó, trong y học cổ truyền, hạt cau có vị đắng, chát, tính ôn, vào các kinh tỳ, vị, đại tràng có tác dụng diệt trùng, tiêu tích, hành khí, lợi thủy. Hạt cau và hoạt chất arecolin (hoạt chất chính trong hạt cau) thường được dùng làm thuốc trị bệnh giun sán cho gia súc, gia cầm. Như đối với chó thì liều dùng trị sán của hạt cau là từ 4 đến 10g hoặc arecolin bromhydrat là từ 1 đến 15mg tùy theo.
Đối với người, hạt cau phối hợp với hạt bí ngô dùng làm thuốc diệt sán. Cách dùng như sau: Sáng sớm lúc đói bụng ăn từ 60 đến 120g hạt bí ngô cả vỏ hoặc từ 40 đến 100g hạt đã bóc vỏ. Hai giờ sau, uống nước sắc hạt cau với liều 30g cho trẻ em dưới 10 tuổi, từ 50 đến 60g cho phụ nữ và đàn ông bé nhỏ và 80g cho người lớn. Cách chế nước sắc hạt cau: đun với 500ml nước, sắc đặc đến khi còn khoảng 150 đến 200ml. Nhỏ dung dịch gelatin 2.5% để kết tủa hết tanin, sau đó lắng gạn và lọc, tiếp tục đun sôi cho đến khi còn khoảng 100 đến 150ml. Uống hết một lần. Sau khi dùng nước sắc hạt cau nửa giờ, uống một liều thuốc tẩy (magie sulfat 30g). Nằm nghỉ đợi thật buồn đi ngoài rồi đại tiện trong một chậu nước ấm, nhúng cả mông vào. Chú ý trước khi đun sôi, ngâm nước hạt cau sẽ có tác dụng hơn khi không ngâm nước. Dung dịch 1% arecolin bromhydrat có tác dụng gây thu nhỏ đồng tử mạnh, có thể dùng làm thuốc hạ nhãn áp trọng bệnh glôcôm, nhưng hiện nay ít dùng do có tác dụng phụ kích thích giác mạc.
Theo dược điển Trung Quốc, có hai loại vỏ cau gồm đại phúc bì (thu hái từ quả chưa chín, bỏ vỏ xanh ngoài) và đại phúc mao (thu hái từ quả chín, bỏ vỏ ngoài). Trong đó, đại phúc bì có vị cay, tính hơi ôn, vào năm kinh tỳ, phế, vị, đại tràng, tiểu tràng có tác dụng hạ khí, khoan trung, hành thủy, tiêu thũng. Đại phúc bì chữa thấp trở, khí trệ, phù toàn thân, bụng đầy trướng, đại tiện không thông, tiểu tiện khó khăn. Liều thường dùng là từ 6 đến 9g, sắc uống cùng nhiều vị thuốc khác.
Theo vtv.vn